Nghị
định số 87/2012/NĐ-CP ngày 23/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều của Luật Hải quan về thủ tục hải quan điện tử đối với hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu thương mại (gọi tắt là Nghị định) được ban hành
với 3 điểm mới cơ bản liên quan đến: người khai hải quan, hệ thống xử
lý dữ liệu điện tử hải quan và thực hiện cải cách thủ tục hành chính,
tạo thuận lợi cho thương mại.
Nghị định được xây dựng trên nguyên tắc đảm
bảo sự nhất quán về thủ tục hải quan quy định tại Nghị định và các văn
bản quy phạm pháp luật liên quan; đồng thời đảm bảo tính kế thừa những
nội dung đang thí điểm thành công của QĐ149/2005/QĐ-TTg và
QĐ103/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; sửa đổi, bổ sung các nội dung
còn bất cập, loại bỏ một số nội dung không đạt hiệu quả trong quá trình
thí điểm; và vẫn đảm bảo tính dự báo trong điều kiện văn bản quy phạm
pháp luật luôn được xây dựng và hoàn thiện; đặc biệt đáp ứng yêu cầu cải
cách thủ tục hành chính hải quan.
Nghị định gồm 3 Chương với 17 Điều, Chương I - Quy định chung; Chương II – Thủ tục hải quan điện tử đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thương mại và Chương III – Điều khoản thi hành.
Quy định liên quan đến người khai hải quan
Trước
hết, Nghị định (NĐ) yêu cầu về việc đáp ứng các điều kiện về hạ tầng
công nghệ thông tin và kỹ năng khai báo hải quan của người khai hải
quan. Điều 6 NĐ đề cập “Bộ Tài chính… quy định cụ thể các điều kiện về
công nghệ thông tin và kỹ năng khai hải quan điện tử của người khai hải
quan điện tử”. Đây là quy định mới, hoàn toàn phù hợp với Luật Giao dịch
điện tử.
Quy
định như trên dựa trên quan điểm cho rằng hiệu quả của thủ tục hải quan
điện tử phụ thuộc vào sự tương tác của hai hệ thống là Hệ thống khai
hải quan điện tử của người khai hải quan và Hệ thống xử lý dữ liệu điện
tử hải quan của cơ quan Hải quan. Để sự tương tác giữa hai hệ thống luôn
ổn định, thông suốt thì không chỉ riêng hệ thống của cơ quan Hải quan
mà cả hệ thống của người khai hải quan cũng phải được đầu tư thỏa đáng
về mặt kỹ thuật, đảm bảo cho việc truyền, nhận và lưu trữ thông tin
trong giao dịch điện tử hải quan.
Yêu
cầu về kỹ năng khai báo hải quan dựa trên quan điểm xem xét hiệu quả
của thủ tục hải quan điện tử chủ yếu phụ thuộc vào trình độ kỹ năng của
hai chủ thể chính là người khai hải quan và công chức hải quan (ngoại
trừ các chủ thể khác được coi là bên thứ ba tham gia vào thủ tục hải
quan). Ngoài ra quy định trên còn xuất phát từ thực tiễn trong quá trình
thí điểm thủ tục hải quan điện tử (2005-2012) đã xảy ra nhiều trường
hợp người khai hải quan do không nắm vững kỹ năng cũng như chưa làm chủ
được phần mềm khai hải quan dẫn đến tình trạng phải khai lại hay gửi
trùng thông tin của một tờ khai nhiều lần đến cơ quan hải quan, gây ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động của Hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải
quan.
Ngoài
ra, điều 4, Khoản 2 của NĐ quy định cụ thể về việc sử dụng chữ ký số
trong thực hiện thủ tục hải quan điện tử. Quy định về việc sử dụng chữ
ký số khi thực hiện thủ tục hải quan điện tử đã được quy định tại Thông
tư 222/2009/TT-BTC, tuy nhiên chưa nêu cụ thể thế nào là chữ ký số hợp
lệ, phạm vi hiệu lực của chữ ký số đã đăng ký với cơ quan hải quan… Để
khắc phục những hạn chế đó, NĐ này quy định, khi thực hiện thủ tục hải
quan điện tử, người khai hải quan phải sử dụng chữ ký số hợp lệ - nghĩa
là đã được đăng ký với cơ quan Hải quan trước khi sử dụng.
Quy định liên quan đến Hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan
Khoản
2, Điều 17 NĐ quy định nguyên tắc yêu cầu các Bộ, cơ quan quản lý nhà
nước phối hợp với cơ quan Hải quan trong việc chuẩn hóa danh mục hàng
hóa quản lý chuyên ngành; cung cấp, trao đổi thông tin liên quan đến
hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của các cơ quan quản lý chuyên ngành và
các đối tượng có liên quan cho cơ quan Hải quan để phục vụ việc đưa ra
các quyết định thông quan hàng hóa. Việc chuẩn hóa danh mục hàng hóa
quản lý chuyên ngành sẽ tạo điều kiện tăng tính tự động hóa của Hệ thống
xử lý dữ liệu điện tử hải quan, giảm thiểu các thủ tục hành chính và
các thao tác thủ công khi thực hiện kiểm tra, đối chiếu.
Cơ
quan Hải quan là cơ quan ra quyết định cuối cùng về việc thông quan,
giải phóng hàng hóa căn cứ vào các quyết định của các cơ quan nhà nước
có liên quan; thời gian phân tích và đưa ra các quyết định phụ thuộc vào
thời gian cơ quan Hải quan tiếp nhận thông tin. Vì vậy, cần thiết phải
quy định trách nhiệm cung cấp và trao đổi thông tin liên quan đến hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu của các Bộ, cơ quan quản lý chuyên ngành cho cơ
quan Hải quan để tạo điều kiện cắt giảm thủ tục hành chính cho người
khai hải quan và giảm thời gian thông quan, đồng thời tạo cơ sở pháp lý
để thực hiện chính thức Cơ chế hải quan một cửa quốc gia do các quy định
hiện hành về vấn đề này mới chỉ mang tính chất thí điểm (theo Quyết
định 48/2011/QĐ-TTg ngày 31/8/2011).
Vì
vậy, việc quy định các đối tượng nêu trên được phép trao đổi thông tin
với cơ quan hải quan thông qua Hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan
khiến thủ tục hải quan điện tử mang đúng nghĩa tự động.
Quy định liên quan đến cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi thương mại
Theo
quy định tại Điểm b, khoản 1, Điều 4 của NĐ, người khai hải quan điện
tử được quyền khai hải quan 24/7 thay vì trong giờ hành chính như đối
với thủ tục hải quan thủ công. Đây là những ưu đãi lớn của cơ quan hải
quan đối với doanh nghiệp.
Những
quy định tại Điều 10 Nghị định cho phép các khâu tiếp nhận, kiểm tra,
đăng ký, phân luồng tờ khai hải quan điện tử được tự động hóa thông qua
Hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan. Như vậy, so với giai đoạn thí
điểm, thủ tục hải quan điện tử sẽ được tự động hóa thêm 3 khâu là kiểm
tra, đăng ký tờ khai và phân luồng tờ khai.
Trong
thời gian thực hiện thí điểm thủ tục hải quan điện tử theo Thông tư
222, ba khâu nghiệp vụ là kiểm tra, đăng ký tờ khai và phân luồng tờ
khai được công chức hải quan thực hiện thủ công thông qua các nghiệp vụ
“kiểm tra sơ bộ” và “kiểm tra phân luồng” nên phát sinh nhiều bất cập,
có trường hợp bị lợi dụng bởi những mục đích cá nhân, dẫn đến một mặt
không đảm bảo tính minh bạch trong việc thực hiện thủ tục hành chính
giữa cơ quan hải quan và người khai hải quan, mặt khác không đảm bảo
“thủ tục hải quan điện tử” mà chỉ là “khai báo điện tử”. Qua quá trình
kiểm tra, đánh giá và phản ánh của cộng đồng doanh nghiệp thì đối với
thủ tục hải quan điện tử, giai đoạn từ khi tiếp nhận thông tin khai hải
quan đến khi kết thúc khâu phân luồng tờ khai thường bị kéo dài không
đảm bảo theo Tuyên ngôn phục vụ khách hàng của ngành Hải quan.
Vì
vậy, để thủ tục hải quan điện tử được thực hiện theo đúng nghĩa tự động
hóa, giảm tối đa sự can thiệp trực tiếp của công chức hải quan vào quy
trình thủ tục, cải cách thủ tục hành chính, giảm thời gian thông quan
đối với mỗi lô hàng, cần thiết phải xây dựng thủ tục hải quan theo hướng
tự động hóa các khâu tiếp nhận, kiểm tra, đăng ký tờ khai và phân luồng
tờ khai trên cơ sở thiết lập các tiêu chí rủi ro, đi đôi với việc tăng
cường công tác phúc tập tờ khai nhằm kịp thời phát hiện những rủi ro,
cảnh báo cho các khâu nghiệp vụ sau hoặc cập nhật thông tin rủi ro vào
Hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan phục vụ cho quản lý hải quan đối
với doanh nghiệp.
NĐ 87 về thủ tục hải quan điện tử có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013.
(Theo website Hải quan Vietnam)
0 ý kiến phản hồi:
Đăng nhận xét