Thứ Ba, 27 tháng 8, 2013

Quan hệ hợp tác Việt Nam và Nhật Bản - nền tảng hình thành dự án VNACCS/VCIS

(vnaccs.com) - Ngày 21 tháng 9 năm 1973, đại diện hai nước (phía Nhật Bản là ông Yoshihiro Nakayama, Đại sứ Nhật Bản tại Cộng hòa Pháp; phía Việt Nam là ông Võ Văn Sung, Đại sứ Việt Nam tại Cộng hòa Pháp) đã ký vào Văn kiện thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Nhật Bản.

Trải qua 40 năm kể từ ngày thiết lập quan hệ ngoại giao (1973-2013), Việt Nam và Nhật Bản đã vượt qua những khó khăn và thử thách, từng bước đưa quan hệ giữa hai nước phát triển vững chắc và sâu rộng. Quan hệ hợp tác hữu nghị Việt Nam và Nhật Bản đang phát triển ngày càng mạnh mẽ, sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị, ngoại giao, kinh tế, đầu tư, thương mại, khoa học công nghệ đến giáo dục, văn hóa, thể thao…mà biểu tượng là việc lãnh đạo cấp cao hai nước đã nhất trí nâng khuôn khổ quan hệ lên đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở Châu Á. Sự phát triển của mối quan hệ ngoại giao giữa hai nước nằm ngoài sự tưởng tượng của nhiều lãnh đạo cũng như người dân của hai quốc gia này, như ngài Shoei Utsuda – Chủ tịch Hội Hợp tác Việt Nam - Nhật Bản đã từng phát biểu "ban đầu tôi không thể nghĩ rằng quan hệ hai nước lại phát triển tốt đẹp đến như vậy"

Có thể nói quan hệ Việt Nam - Nhật Bản phát triển như ngày nay là nhờ sự nỗ lực của Chính phủ, nhân dân Nhật Bản và Việt Nam trong việc xây dựng mối quan hệ đa dạng trên tất cả các lĩnh vực. Hiện nay, Nhật Bản là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất và cung cấp viện trợ ODA nhiều nhất cho Việt Nam, điều đó chứng tỏ quan hệ đối tác chiến lược mà Chính phủ Việt Nam và Nhật Bản đã thống nhất xây dựng đang bước vào giai đoạn đạt tới tầm cao mới.

Trên tinh thần quan hệ hợp tác chiến lược giữa hai nước, Chính phủ Nhật Bản đã quyết định dành cho Việt Nam gói hỗ trợ toàn diện dưới hình thức viện trợ không hoàn lại để phát triển và xây dựng hệ thống thông quan tự động dựa trên nền tảng công nghệ tiên tiến của hệ thống NACCS/CIS. Để đưa hệ thống NACCS/VCIS hiện đang áp dụng cho thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu tại Nhật Bản vào áp dụng tại Việt Nam, Chính phủ hai nước đã đi đến thống nhất thành lập và phát triển dự án "xây dựng, triển khai hải quan điện tử và thực hiện cơ chế hải quan một cửa phục vụ hiện đại hóa Hải quan tại Việt Nam", gọi tắt là dự án "VNACCS/VCIS".
(Theo TCHQ. Tac gia:Phạm Thị Nguyệt )


Tuyên bố trách nhiệm: Bài viết được lấy nguyên văn từ nguồn tin nêu trên. Mọi thắc mắc về nội dung bài viết xin liên hệ trực tiếp với tác giả. Chúng tôi sẽ sửa, hoặc xóa bài viết nếu nhận được yêu cầu từ phía tác giả hoặc nếu bài gốc được sửa, hoặc xóa, nhưng vẫn bảo đảm nội dung được lấy nguyên văn từ bản gốc khi đăng tải tại http://www.vnaccs.com.  
 Câu hỏi hoặc góp ý xin gửi tới email:vnaccs@gmail.com
Xin chân thành cảm ơn và kính chúc quý khách luôn thành công trong cuộc sống!

Chủ tịch công ty NACCS Nhật Bản cam kết hỗ trợ Hải quan Việt Nam trong việc triển khai dự án

(vnaccs.com) - Ngày 27/8/2013, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan Nguyễn Ngọc Túc đã có buổi tiếp xã giao ông Toshihiko MIYASAKA - Chủ tịch Công ty NACCS - Nhật Bản.


Tham dự buổi tiếp còn có lãnh đạo Vụ Hợp tác quốc tế, Cục Công nghệ thông tin và Thống kê hải quan và thành viên Ban Quản lý dự án VNACCS/VCIS.
Chủ tịch Công ty NACCS Toshihiko MIYASAKA (trái) và Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan Nguyễn Ngọc Túc tại buổi tiếp xã giao.
VNACCS/VCIS - dự án xây dựng, triển khai hải quan điện tử và thực hiện cơ chế hải quan một cửa quốc gia phục vụ hiện đại hóa hải quan tại Việt Nam - là dự án hợp tác song phương lớn nhất từ trước đến nay của ngành Hải quan với Nhật Bản xét về quy mô, tổng vốn đầu tư, mức độ phức tạp về kỹ thuật cũng như số lượng cán bộ được huy động tham gia. Dự án có phạm vi ảnh hưởng rộng lớn, bao gồm tất cả các Cục Hải quan tỉnh, thành phố, cộng đồng doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các Bộ, ngành tham gia cơ chế một cửa hải quan và các bên liên quan khác như ngân hàng, hãng vận tải, giao nhận…
Trong buổi tiếp, Tổng cục trưởng Nguyễn Ngọc Túc hoan nghênh chuyến thăm và làm việc của Chủ tịch Công ty NACCS - Nhật Bản. Đồng chí đề nghị ông Toshihiko MIYASAKA cũng như công ty NACCS tiếp tục hỗ trợ cho Hải quan Việt Nam sau khi dự án VNACCS/VCIS đi vào hoạt động.
Ông Toshihiko MIYASAKA mới được bổ nhiệm làm Chủ tịch công ty NACCS thay cho ông Yoshimoto TAKEO vào ngày 21/6 vừa qua. Ông cho biết đây là dự án quan trọng, mang tính quốc gia và cam kết bản thân ông sẽ cố gắng đem hết kiến thức, kinh nghiệm để hỗ trợ Hải quan Việt Nam trong việc triển khai dự án cũng như quản lý và vận hành khi dự án đi vào hoạt động.
                Ông Toshihiko MIYASAKA tham quan Trung tâm dữ liệu Tổng cục Hải quan.
(Theo TCHQ. Tac gia: Hữu Bình)


Tuyên bố trách nhiệm: Bài viết được lấy nguyên văn từ nguồn tin nêu trên. Mọi thắc mắc về nội dung bài viết xin liên hệ trực tiếp với tác giả. Chúng tôi sẽ sửa, hoặc xóa bài viết nếu nhận được yêu cầu từ phía tác giả hoặc nếu bài gốc được sửa, hoặc xóa, nhưng vẫn bảo đảm nội dung được lấy nguyên văn từ bản gốc khi đăng tải tại http://www.vnaccs.com.  
 Câu hỏi hoặc góp ý xin gửi tới email:vnaccs@gmail.com
Xin chân thành cảm ơn và kính chúc quý khách luôn thành công trong cuộc sống!

Đào tạo chi tiết hệ thống VNACCS/VCIS khu vực miền Trung

(vnaccs.com) - Từ ngày 26-30/08/2013, tại Khánh Hòa, Tổng cục Hải quan đã tổ chức lớp đào tạo chi tiết hệ thống VNACCS/VCIS khu vực miền Trung.

Lớp đào tạo chi tiết tại Khánh Hòa được tổ chức để đào tạo cho các cán bộ, công chức Hải quan thuộc 11 Cục Hải quan tỉnh, thành phố: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai - Kon Tum, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Thừa Thiên - Huế. Đây là lớp đào tạo chi tiết thứ 2 sau lớp đầu tiên được tổ chức tại Tổng cục Hải quan từ ngày 19-23/08/2013 dành cho các Cục Hải quan tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc.

Khai mạc lớp đào tạo tại Khánh Hòa, Phó Tổng cục trưởng Nguyễn Công Bình nhấn mạnh: Việc triển khai hệ thống VNACCS/VCIS nằm trong chiến lược hiện đại hóa đến năm 2015, tầm nhìn 2020. Để chuẩn bị cho hệ thống VNACCS/VCIS vào vận hành, Tổng cục Hải quan đã trang bị hệ thống máy móc thiết bị rất hiện đại, ngang tầm với hệ thống trang thiết bị tại Nhật Bản. Phó Tổng cục trưởng đề nghị các học viên tham gia lớp học phải nỗ lực học tập để trở thành các chuyên gia. Đồng thời, Phó Tổng cục trưởng yêu cầu các giảng viên cố gắng hết sức để truyền đạt đầy đủ, chi tiết các quy trình nghiệp vụ trên hệ thống cho đội ngũ chuyên gia tương lai.

Tiếp theo phát biểu của Phó Tổng cục trưởng, ông Nguyễn Mạnh Tùng - Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin và Thống kê hải quan, Phó trưởng Ban thường trực Ban triển khai dự án VNACCS/VCIS đã nhấn mạnh trách nhiệm của các học viên tham gia lớp đào tạo chi tiết hệ thống VNACCS/VCIS bởi đội ngũ này sẽ trở thành những chuyên gia tại các Cục Hải quan tỉnh, thành phố để đào tạo lại cho các cán bộ, công chức thuộc đơn vị mình và cho các doanh nghiệp trên địa bàn.

Trong thời gian đào tạo, các học viên sẽ được hướng dẫn chi tiết các quy trình nghiệp vụ vận hành trên hệ thống VNACCS/VCIS từ khâu khai báo thông tin hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, đăng ký tờ khai hải quan, các thủ tục liên quan trong quá trình thông quan đến khi cấp phép thông quan hàng hóa, thanh khoản tờ khai…

(Theo TCHQ. Tac gia: Phạm Nguyệt )


 http://www.vnaccs.com.  
 Câu hỏi hoặc góp ý xin gửi tới email:vnaccs@gmail.com
Xin chân thành cảm ơn và kính chúc quý khách luôn thành công trong cuộc sống!

Chủ Nhật, 25 tháng 8, 2013

Tình hình thực hiện Dự án VNACCS/VCIS đến tháng 7/2013

(vnaccs.com) - Với quyết tâm của Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Nhật Bản là đưa hệ thống VNACCS/VCIS vào vận hành chính thức từ tháng 4/2014 theo đúng kế hoạch đề ra, hai bên đã xác định năm 2013 là giai đoạn tăng tốc và nước rút trước khi về đích trong năm 2014. Do vậy, hầu hết các hạng mục quan trọng của dự án được triển khai trong giai đoạn này. 

Kết quả triển khai sẽ quyết định hoàn toàn đến tiến độ và sự thành công của dự án trong giai đoạn tiếp theo. Chính vì vậy, khối lượng và cường độ công việc phải xử lý trong giai đoạn này là rất lớn. Với quyết tâm đó, tính đến thời điểm hiện tại, dự án đã triển khai được các hạng mục sau:
1. Xây dựng xong thiết kế sơ bộ Hệ thống VNACCS/VCIS, xác định phạm vi, các chức năng cơ bản, và phương thức hoạt động của Hệ thống.

2. Xây dựng và hoàn thiện thiết kế chi tiết hệ thống VNACCS/VCIS: (i) xây dựng và hoàn thiện Thiết kế chi tiết quy trình nghiệp vụ hệ thống VNACCS/VCIS; (ii) xây dựng và hoàn thiện Thiết kế cơ chế một cửa hệ thống VNACCS/VCIS; (iii) thiết lập các tiêu chí kỹ thuật định dạng EDI/EDIFACT; (iv) thiết kế phần mềm hệ thống; (v) thiết kế cấu trúc công nghệ thông tin; (vi) xây dựng thiết kế phần mềm đầu cuối; (vii) thiết lập danh mục các nghiệp vụ EUC; (viii) lập kế hoạch kiểm tra và thử nghiệm phần mềm; (ix) thống nhất chuẩn mã hóa.

3. Rà soát, đề xuất sửa đổi bổ sung khung pháp lý phục vụ cho việc vận hành hệ thống VNACCS/VCIS: Xác định những nội dung cần sửa đổi bổ sung tại các văn bản pháp lý có liên quan; đề xuất phương án xây dựng pháp lý phục vụ cho việc vận hành Hệ thống VNACCS/VCIS khi Luật Hải quan sửa đổi bổ sung chưa được ban hành. Hiện tại, Ban Triển khai dự án đang tiến hành xây dựng Thông tư phục vụ triển khai hệ thống VNACCS/VCIS.
4. Tài liệu đào tạo và hướng dẫn quy trình nghiệp vụ trên VNACCS/VCIS: Dự án đã cơ bản hoàn thành xong dự thảo: Sổ tay hướng dẫn quy trình nghiệp vụ sử dụng trong Hệ thống VNACCS/VCIS; Tài liệu hướng dẫn phần mềm đầu cuối; Tài liệu hướng dẫn đăng ký sử dụng; tài liệu phục vụ đào tạo chi tiết hệ thống VNACCS/VCIS.
5. Đào tạo về hệ thống VNACCS/VCIS trong toàn ngành:
5.1. Đào tạo tổng quan về hệ thống: Ban Triển khai dự án đã ban hành Kế hoạch đào tạo cho người sử dụng Hệ thống VNACCS/VCIS theo Quyết định số 192/QĐ-TCHQ ngày 22/01/2013; Tổ chức đào tạo tổng quan cho cán bộ, công chức thuộc khối cơ quan Tổng cục và 34 Cục Hải quan tỉnh, thành phố, cụ thể gồm: 16 lớp (trong đó có 11 lớp tại Tổng cục, 5 lớp tại địa phương cho các đối tượng là lãnh đạo các cấp tại Tổng cục và cán bộ chủ chốt của địa phương, với gần 1200 cán bộ, công chức trong toàn Ngành tham dự). Các Cục Hải quan tỉnh, thành phố đã tiến hành tổ chức đào tạo lại về Hệ thống VNACCS/VCIS cho cán bộ, công chức tại đơn vị.
5.2. Đào tạo chi tiết về hệ thống: Ban Triển khai dự án đã hoàn thành kế hoạch đào tạo chi tiết về hệ thống VNACCS/VCIS và đã có công văn gửi các Cục Hải quan tỉnh, thành phố hướng dẫn tổ chức đào tạo chi tiết về hệ thống. Việc đào tạo chi tiết được chi thành 2 bước: bước 1 do Tổng cục Hải quan tổ chức; bước 2 Cục Hải quan tỉnh, thành phố tổ chức đào tạo lại.
6. Xây dựng các tệp dữ liệu tập trung (CSF): Đã hoàn thành cơ bản toàn bộ các tệp CSF với hàng nghìn chỉ tiêu thông tin được thiết lập và mã hóa. Các tệp dữ liệu sẽ được sử dụng để cài đặt vào Hệ thống VNACCS/VCIS phục vụ cho giai đoạn thử kết nối, vận hành thử và vận hành chính thức Hệ thống.
7. Hoàn thiện việc lắp đặt trang thiết bị tại Trung tâm dữ liệu thuộc gói thầu phần cứng và thiết lập môi trường vận hành hệ thống VNACCS/VCIS: (i) Hoàn thiện và đáp ứng đầy đủ các điều kiện về hạ tầng kỹ thuật của Trung tâm dữ liệu, như: các hạng mục xây lắp; hệ thống điện, nước, làm mát, phòng chống cháy nổ; hệ thống an ninh, giám sát; hệ thống đấu nối,... phục vụ hệ thống VNACCS/VCIS; (ii) Tiếp nhận và phối hợp với phía nhà thầu NTT Data triển khai lắp đặt các trang thiết bị phần cứng tại Trung tâm dữ liệu; (iii) Thiết lập môi trường bên trong Trung tâm dữ liệu; (iv) Hoàn thành việc cài đặt các phần mềm vào máy chủ của hệ thống và kiểm tra hoạt động của máy chủ.
8. Nâng cấp hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin hiện có theo mô hình xử lý tập trung đáp ứng yêu cầu của VNACCS: (i) Thực hiện các thủ tục đấu thầu mua sắm nâng cấp các hệ thống CNTT hiện có; (ii) Xác định các yêu cầu kỹ thuật cần phải nâng cấp đối với các hệ thống công nghệ thông tin hiện có để phục vụ cho việc kết nối và vận hành thử hệ thống VNACCS/VCIS; (iii) Nghiên cứu phương pháp và thiết lập công cụ chuyển đổi dữ liệu từ hệ thống hiện hành sang VNACCS/VCIS.
9. Đảm bảo hạ tầng mạng đáp ứng yêu cầu xử lý dữ liệu của VNACCS: Đã làm việc với Cục Tin học thống kê, Bộ Tài chính đảm bảo yêu cầu hạ tầng truyền thông cho VNACCS/VCIS.
10. Nghiên cứu, đề xuất cơ cấu tổ chức quản lý, vận hành hệ thống VNACCS theo chỉ đạo của Bộ: Thành lập Trung tâm Quản lý vận hành hệ thống công nghệ thông tin hải quan. Trung tâm sẽ tiếp quản, quản lý và vận hành Hệ thống VNACCS/VCIS. Hiện tại, Tổng cục Hải quan đã trình Bộ xem xét phê duyệt "Đề án mô hình tổ chức hoạt động của Trung tâm quản lý vận hành hệ thống công nghệ thông tin" và đang tiến hành tổng hợp tham gia ý kiến của các đơn vị trực thuộc Bộ.
11. Các công việc khác: (i) Về đăng ký người sử dụng: Đã xây dựng xong dự thảo quy trình đăng ký người sử dụng; phát triển ứng dụng cho người đăng ký sử dụng qua website; dự thảo và trình Bộ ban hành Quyết định của Bộ Tài chính về chữ ký số; (ii) Về thiết lập bàn giải đáp (Help Desk): Tổng cục Hải quan đang triển khai các công việc liên quan như xây dựng đề án đấu thầu, xây dựng, triển khai bộ phận HelpDesk. Chức năng, nhiệm vụ của bộ phận hỗ trợ giải đáp sẽ thực hiện theo "Đề án mô hình tổ chức hoạt động của Trung tâm quản lý vận hành hệ thống công nghệ thông tin".


Kế hoạch thực hiện trong thời gian tới
1. Đào tạo/tập huấn chi tiết cho người sử dụng hệ thống.
2. Tiếp tục hoàn thiện các tệp dữ liệu tập trung (CSF) phục vụ vận hành thử hệ thống.
3. Trình phê duyệt các văn bản pháp lý sửa đổi, bổ sung đáp ứng yêu cầu vận hành VNACCS/VCIS.
4. Tiến hành đăng ký người sử dụng.
5. Hoàn thiện việc nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ kết nối thử và vận hành thử hệ thống VNACCS/VCIS.
6. Tích hợp hệ thống và thực hiện kết nối thử hệ thống.
7. Chuyển đổi dữ liệu sang hệ thống VNACCS/VCIS.
8. Kiểm tra và vận hành thử hệ thống.

(Theo Tổng cục Hải quan. Tác giả: Hoàng Đình Trung)



Tuyên bố trách nhiệm: Bài viết được lấy nguyên văn từ nguồn tin nêu trên. Mọi thắc mắc về nội dung bài viết xin liên hệ trực tiếp với tác giả. Chúng tôi sẽ sửa, hoặc xóa bài viết nếu nhận được yêu cầu từ phía tác giả hoặc nếu bài gốc được sửa, hoặc xóa, nhưng vẫn bảo đảm nội dung được lấy nguyên văn từ bản gốc khi đăng tải tại http://www.vnaccs.com.  
 Câu hỏi hoặc góp ý xin gửi tới email:vnaccs@gmail.com
Xin chân thành cảm ơn và kính chúc quý khách luôn thành công trong cuộc sống!

Chuẩn hóa chính sách mặt hàng phục vụ thông quan điện tử VNACCS/VCIS

(vnaccs.com) - Từ tháng 4/2014, Tổng cục Hải quan (TCHQ) dự kiến đưa vào vận hành hệ thống thông quan tự động VNACCS/VCIS. VNACCS/VCIS tự động cấp số tờ khai, tự động phân luồng… do vậy cần phải xây dựng được hệ thống có khả năng xác định chính sách quản lý mặt hàng và hàng kiểm tra chuyên ngành với độ chính xác cao.
Tại hội thảo về chuẩn hóa, mã hóa các Danh mục hàng hóa quản lý chuyên ngành theo mã số HS trong Biểu thuế xuất nhập khẩu (XNK) tổ chức ngày 21/8/2013, TCHQ đã cung cấp những thông tin quy định và công tác triển khai của Ngành về quản lý chính sách mặt hàng trên VNACCS/VCIS đến các Bộ, ngành liên quan.
Hiện nay, theo các văn bản quy định liên quan đến chính sách quản lý mặt hàng tại Việt Nam, có thể chia thành các loại cơ bản như sau:
+ Mặt hàng cấm xuất khẩu (XK), cấm (nhập khẩu) NK; tạm ngừng XK, NK.
+ Mặt hàng XK, NK theo giấy phép.
+ Mặt hàng XK, NK theo điều kiện.
+ Mặt hàng XK, NK phải kiểm tra chuyên ngành (kiểm dịch, kiểm tra nhà nước về chất lượng, kiểm tra an toàn thực phẩm).
+ Chính sách mặt hàng đối với loại hình khác (hàng tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu, gửi kho ngoại quan).
Bất cập trong quản lý chính sách mặt hàng XNK
Để triển khai thủ tục hải quan điện tử (HQĐT) theo Nghị định số 87/2012/NĐ-CP ngày 23/10/2012 của Chính phủ, TCHQ đã áp dụng toàn bộ các danh mục quản lý chuyên ngành đã được rà soát, chuẩn hóa vào hệ thống quản lý rủi ro (QLRR) phục vụ cho việc phân luồng hàng hóa.
Hiện nay, hàng hóa thuộc Danh mục quản lý chuyên ngành đang được thiết lập tiêu chí luồng đỏ (đối với hàng cấm XNK) và luồng vàng (đối với hàng hóa yêu cầu kiểm tra điều kiện như cấp phép XNK, kiểm dịch, kiểm tra chất lượng…). Việc đưa 65.000 dòng hàng đã được rà soát, chuẩn hóa vào hệ thống phân luồng qua công tác QLRR dẫn đến tăng tỷ lệ kiểm tra ở luồng vàng, đỏ trong khi hiệu quả phát hiện vi phạm trong các lô hàng NK thuộc diện quản lý chuyên ngành còn rất hạn chế do tồn tại nhiều bất cập.  
Đó là, hàng hóa quản lý chuyên ngành hiện được lưu và nhận dạng để phân luồng thông qua tên hàng và mã HS. Tuy nhiên, nhiều danh mục quy định chỉ cấm NK mặt hàng cũ mà danh mục được chuẩn hóa theo tên hàng và mã HS, không có tiêu chí phân biệt cũ - mới nên hệ thống không thể bóc tách được tiêu chí này.
Bên cạnh đó, theo quy định, một số mặt hàng mới thuộc diện cấm NK, trừ trường hợp sử dụng cho mục đích khác (sửa chữa, bảo hành, làm mới…) thì được phép NK khi có ý kiến xác nhận của Bộ quản lý chuyên ngành. Với trường hợp này, hệ thống cũng không phân biệt được do chưa có tiêu chí phân biệt giữa hàng hóa thuộc danh mục cấm NK nhằm mục đích kinh doanh với các hàng hóa phục vụ cho mục đích đặc biệt khác.
Với trường hợp hàng hóa NK phải kiểm tra nhà nước về chất lượng hoặc kiểm tra an toàn thực phẩm thì các Bộ, ngành quy định phân biệt giữa hàng hóa NK phải có chứng nhận đạt yêu cầu chất lượng, an toàn thực phẩm trước khi thông quan với hàng hóa NK được mang về bảo quản, phải nộp chứng nhận chất lượng, an toàn thực phẩm để hoàn thành việc thông quan. Tuy nhiên, danh mục chuẩn hóa cũng chưa có tiêu chí để phân biệt các loại hàng này.
Hơn nữa, một số văn bản quản lý chuyên ngành điều chỉnh với đối tượng quá rộng gây khó khăn cho hệ thống khi nhận diện.
TCHQ cũng cho biết, theo quy định hiện nay, thông tin khai báo hàng hóa XK, NK không quy định cụ thể về trách nhiệm phải khai đầy đủ thông tin quản lý chính sách mặt hàng XK, NK, do đó hệ thống khó có thể tự động xác định chính sách quản lý đối với mặt hàng XNK cụ thể, theo đúng quy định.
Cho phép tra cứu cả chính sách mặt hàng và văn bản điều chỉnh
Chính vì vậy, việc mã hóa chính sách và văn bản điều chỉnh với hàng hóa XNK là yêu cầu quan trọng khi xây dựng hệ thống thông quan điện tử.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng về quản lý chính sách mặt hàng và cách tiếp cận quản lý của hệ thống VNACCS/VCIS, TCHQ đã tiến hành mã hóa các văn bản pháp quy của Chính phủ, các Bộ, ngành có điều chỉnh về chính sách mặt hàng.
Đến thời điểm hiện tại, TCHQ đã thống kê được tổng số 127 văn bản pháp quy có liên quan đến hoạt động XNK cần phải mã hóa.
Để hỗ trợ việc tra cứu chính sách quản lý đối với hàng hóa XNK, TCHQ cũng đã tiến hành mã hóa các chính sách quản quản lý với hàng hóa XNK của Chính phủ, các Bộ, ngành theo Biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu ưu đãi ban hành kèm theo Thông tư số 193/2012/TT-BTC ngày 15/11/2012 của Bộ Tài chính.
Theo Danh mục, Biểu thuế đã được mã hóa chính sách quản lý, cơ quan hải quan và doanh nghiệp có thể tra cứu được các chính sách quản lý hàng hóa XNK với từng mặt hàng cụ thể. Nói cách khác, đối với từng mã HS (ở cấp độ 08 chữ số), nếu thuộc danh mục quản lý chuyên ngành của các Bộ, ngành, có thể tra cứu được các chính sách XNK áp dụng với hàng hóa, đồng thời tra cứu được mã văn bản cụ thể quy định về chính sách với hàng hóa đó để khai báo vào hệ thống VNACCS/VCIS.
Ví dụ như với mặt hàng “các loại ô và dù (kể cả ô có cán là ba toong, dù che trong vườn và các loại ô, dù tương tự)” có mã HS 6601.10.00, tra cứu như sau:
Tại cột mã chính sách: hiển thị mặt hàng này thuộc các mã chính sách 1B (nghĩa là hàng cũ cấm nhập khẩu) và mã chính sách 5B (hàng tạm ngừng tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu, gửi kho ngoại quan).
Tại cột mã văn bản: hiển thị mặt hàng này thuộc mã văn bản AA - Thông tư số 04/2006/TT-BTM ngày 06/4/2006 của Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) trong đó có danh mục hàng tiêu dùng cấm nhập khẩu; mã văn bản AD – Thông tư số 05/2013/TT-BCT ngày 18/2/2013 của Bộ Công Thương trong đó có danh mục hàng tạm ngừng tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu, gửi kho ngoại quan.
 Lợi ích của việc mã hóa chính sách mặt hàng
Trước hết, mã hóa chính sách quản lý hàng hóa XNK giúp minh bạch hóa quy định pháp luật. Đối với doanh nghiệp, họ sẽ xác định được chính sách áp dụng, văn bản điều chỉnh đối với mặt hàng XNK. Còn cơ quan hải quan thì có cơ sở để đối chiếu, kiểm tra lại việc khai báo cũng như xem việc áp dụng chính sách của doanh nghiệp đã đầy đủ và chính xác chưa.
Đây là cơ sở dữ liệu quan trọng để hệ thống VNACCS/VCIS xác định được một mặt hàng có mã HS thuộc Danh mục quản lý chuyên ngành nào để nếu doanh nghiệp không khai thông tin giấy phép thì hệ thống sẽ tự động chuyển luồng hoặc chỉ dẫn kiểm tra giấy phép.
Việc mã hóa chính sách mặt hàng cũng sẽ hỗ trợ hiệu quả việc kiểm tra, phân luồng hàng hóa trong quá trình triển khai VNACCS/VCIS và HQĐT.
Tuy nhiên, phát biểu tại hội thảo về chuẩn hóa, mã hóa các Danh mục hàng hóa quản lý chuyên ngành theo mã số HS, TCHQ cho rằng, việc mã hóa các chính sách quản lý hàng hóa XNK và văn bản pháp quy theo mã HS tuy được kỳ vọng là sẽ tạo nên một “cẩm nang tra cứu” hữu ích nhưng cũng chỉ là kết quả bước đầu. Để cẩm nang online này thực sự “sống” và phát huy hiệu quả thì cần phải được cập nhật liên tục, nhất là trong điều kiện văn bản điều chỉnh của Bộ, ngành thường xuyên thay đổi như hiện nay. Chính vì vậy, TCHQ đề nghị, mỗi khi có văn bản điều chỉnh, các Bộ, ngành thông tin ngay cho TCHQ Danh mục mặt hàng kèm theo mã HS cụ thể để TCHQ cập nhật vào hệ thống.
Trong thời gian tới, TCHQ sẽ xây dựng và trình Bộ Tài chính ban hành Thông tư quy định về mã hóa chính sách quản lý hàng hóa XNK và mã hóa văn bản pháp quy phục vụ triển khai VNACCS/VCIS. Sau đó, sẽ công bố Danh mục, Biểu thuế đã được mã hóa chính sách quản lý và văn bản trên Cổng Thông tin điện tử Hải quan để thuận tiện cho doanh nghiệp và cơ quan hải quan khi tra cứu, triển khai thực hiện. 
(Nguon: TCHQ)


Tuyên bố trách nhiệm: Bài viết được lấy nguyên văn từ nguồn tin nêu trên. Mọi thắc mắc về nội dung bài viết xin liên hệ trực tiếp với tác giả. Chúng tôi sẽ sửa, hoặc xóa bài viết nếu nhận được yêu cầu từ phía tác giả hoặc nếu bài gốc được sửa, hoặc xóa, nhưng vẫn bảo đảm nội dung được lấy nguyên văn từ bản gốc khi đăng tải tại http://www.vnaccs.com.  
 Câu hỏi hoặc góp ý xin gửi tới email:vnaccs@gmail.com
Xin chân thành cảm ơn và kính chúc quý khách luôn thành công trong cuộc sống!

Thứ Sáu, 23 tháng 8, 2013

Khái quát chung về Hệ thống VNACCS/VCIS

(vnaccs.com) - Hệ thống VNACCS/VCIS là Hệ thống thông quan điện tử và Cơ chế một cửa quốc gia gồm 02 hệ thống nhỏ:
 (i) Hệ thống thông quan điện tử (gọi tắt là Hệ thống VNACCS);
 (ii) Hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin nghiệp vụ (gọi tắt là Hệ thống VCIS). Hệ thống VNACCS/VCIS gồm các phần mềm chủ yếu: Khai báo điện tử (e-Declaration); Manifest điện tử (e-Manifest); Hóađơn điện tử (e-Invoice); Thanh toán điện tử (e-Payment); C/O điện tử (e-C/O); Phân luồng (selectivity); Quản lý hồ sơ rủi ro/tiêu chí rủi ro; Quản lý doanh nghiệp XNK; Thông quan và giải phóng hàng; Giám sát và kiểm soát.

Hệ thống VNACCS là hệ thống thông quan hàng hóa tự động của Việt Nam (Tên tiếng Anh là Viet Nam Automated Cargo Clearance System). Hệ thống VNACCS sử dụng cho mục đích thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu.

So với hệ thống hiện hành, Hệ thống VNACCS có điểm mới là tập trung cả 03 khâu: Khâu trước, trong và sau thông quan. Hệ thống hiện tại chỉ tập trung khâu trong và sau thông quan. Toàn bộ khâu trước thông quan hiện nay mới chỉ được thực hiện thí điểm trong khuôn khổ Dự án E-manifest, theo đó, hãng tàu phải gửi trước toàn bộ thông tin manifest về hàng hóa trên tàu cho cơ quan Hải quan.

So với hệ thống hiện hành, Hệ thống VNACCS mở rộng thêm các chức năng, thủ tục mới, đó là thủ tục đăng ký danh mục miễn thuế, thủ tục áp dụng chung cả hàng mậu dịch và phi mậu dịch, thủ tục đơn giản đối với hàng trị giá thấp, quản lý hàng hóa tạm nhập - tái xuất.

Chức năng khác của Hệ thống VNACCS là tăng cường kết nối với các Bộ, Ngành bằng cách áp dụng Cơ chế một cửa (Single Window). Theo thiết kế, Hệ thống VNACCS có sự kết nối với các Bộ, Ngành. Cơ quan Hải quan sẽ gửi thông tin liên quan đến việc xin cấp phép của các cơ quan chuyên ngành. Kết quả xử lý cấp phép sẽ được thực hiện thông qua Hệ thống.

Tiếp nhận và xử lý phân luồng tự động thông tin khai báo của doanh nghiệp. Hạn chế sử dụng hồ sơ giấy thông qua việc áp dụng chữ ký điện tử. Thời gian xử lý đối với hàng luồng xanh là 1 - 3 giây. Thời gian xử lý đối với luồng vàng và luồng đỏ phụ thuộc vào thời gian kiểm tra hồ sơ và kiểm tra thực tế hàng hóa.

Hệ thống VNACCS kết nối với nhiều hệ thống công nghệ thông tin của các bên liên quan như: doanh nghiệp kinh doanh kho bãi, cảng, dịch vụ, giao nhận, vận chuyển, ngân hàng, các Bộ, Ngành liên quan.

Về khai báo và xử lý thông tin khai báo trước thông quan: trước thông quan, hệ thống VNACCS hỗ trợ tập trung xử lý thông tin trước khi hàng đến/khai báo để phục vụ cho công tác kiểm tra, giám sát hải quan tại các khâu khai báo.

Một trong những nội dung thay đổi tương đối lớn của Hệ thống VNACCS liên quan đến hàng gia công, sản xuất xuất khẩu và chế xuất. Khi áp dụng Hệ thống VNACCS sẽ thực hiện theo hướng thanh khoản theo từng tờ khai, thực hiện quản lý theo từng phương tiện vận tải. Doanh nghiệp sẽ thực hiện tự khai, tự chịu trách nhiệm và tự thanh khoản. Cơ quan Hải quan chỉ kiểm tra trên cơ sở thông tin quản lý rủi ro đối với việc thanh khoản.

Về xác định trị giá. Hiện tại, Việt Nam áp dụng 06 mẫu Tờ khai trị giá tương ứng với 06 phương pháp xác định trị giá. Khi áp dụng Hệ thống VNACCS cho phép gộp một số chỉ tiêu của tờ khai trị giá theo phương pháp trị giá giao dịch vào tờ khai nhập khẩu. Do đó, về cơ bản, đối với phương pháp trị giá giao dịch không cần phải khai riêng tờ khai trị giá như hiện nay. Để đảm bảo việc thông quan hàng hóa nhanh chóng, những lô hàng có sự nghi vấn về giá sẽ chuyển sang khâu sau thông quan để xác định. Bộ phận nào xử lý việc này sẽ được cân nhắc cụ thể trước khi đưa hệ thống này đi vào vận hành.

Về giám sát, quản lý hải quan đối với một số loại hình: khi áp dụng Hệ thống VNACCS, hệ thống sẽ được thực hiện theo hướng đơn giản hóa, gom các quy trình thủ tục theo hướng chuyển cửa khẩu, chuyển cảng, quá cảnh,…về loại hình là hàng hóa vận chuyển chịu sự giám sát của hải quan vì bản chất là việc chuyển hàng hóa từ địa điểm này sang địa điểm khác, chịu sự giám sát của hải quan. Hiện tại chưa có loại hình đối với chuyển cảng. Vì vậy, căn cứ theo Công ước Kyoto sửa đổi và thực tiễn của Hải quan các nước, trong dự thảo Luật Hải quan sửa đổi, bổ sung có đưa nội dung này theo hướng doanh nghiệp vận tải chịu trách nhiệm cập nhật thông tin và phản hồi thông tin trên hệ thống về hàng hóa vận chuyển đang chịu sự giám sát của Hải quan tại điểm đi và điểm đến để phục vụ cho việc theo dõi, giám sát của hải quan.

Về chế độ quản lý của hải quan: Theo quy định hiện tại, hiện có khoảng trên 200 mã loại hình xuất khẩu, nhập khẩu. Để đảm bảo và tạo thuận lợi cho việc quản lý hải quan, thống kê và trên cơ sở khuyến nghị của Công ước Kyoto sửa đổi, Hệ thống VNACCS thực hiện chuẩn hóa các chế độ quản lý hải quan với khoảng 40 mã loại hình xuất khẩu, nhập khẩu. Bên cạnh đó, khi thực hiện Hệ thống VNACCS/VCIS sẽ không phân biệt loại hình mậu dịch và phi mậu dịch, sự khác nhau chủ yếu là về mặt chứng từ. Ngoài ra, một số loại hình đặc thù như hàng hóa mang vào, mang ra của cư dân biên giới, hàng an ninh quốc phòng, hàng trị giá thấp sẽ được thực hiện thủ công.
(Theo Customs.gov.vn, tác giả: Cao Huy Tài)


http://www.vnaccs.com.  
 Câu hỏi hoặc góp ý xin gửi tới email:vnaccs@gmail.com
Xin chân thành cảm ơn và kính chúc quý khách luôn thành công trong cuộc sống!

Thứ Tư, 21 tháng 8, 2013

vnaccs: Sự cần thiết của Trung tâm quản lí, vận hành CNTT hải quan

(vnaccs) - Tổng cục Hải quan vừa trình Bộ Tài chính Đề án triển khai hoạt động của Trung tâm quản lí, vận hành CNTT hải quan. Việc xây dựng và đưa vào vận hành Trung tâm có ý nghĩa hết sức quan trọng để chủ động tiếp nhận, vận hành Hệ thống thông quan tự động (VNACCS) do Nhật Bản viện trợ và đáp ứng được các mục tiêu hiện đại hóa của Hải quan Việt Nam trong thời gian tới.

Kết nối toàn quốc

Những năm gần đây, Hải quan Việt Nam được đánh giá là một trong những đơn vị đi tiên phong trong lĩnh vực hiện đại hóa. Điều này đã góp phần không nhỏ trong việc tạo thuận lợi cho hoạt động giao thương quốc tế của đất nước và đảm bảo yêu cầu quản lí Nhà nước về Hải quan.


Theo Cục Công nghệ thông tin và Thống kê Hải quan (CNTT&TKHQ), đến nay hầu hết các hoạt động nghiệp vụ, quản lí điều hành của ngành Hải quan đã được tin học hóa và hoạt động dựa vào các hệ thống CNTT. Về hạ tầng mạng, hệ thống mạng LAN đã được trang bị cho toàn bộ các cửa khẩu và trụ sở làm việc của cơ quan Hải quan các cấp. Mạng diện rộng của ngành Hải quan đã được kết nối từ Tổng cục đến các cục và chi cục hải quan địa phương (kết nối tất cả 34 cục và hơn 200 chi cục).

Toàn Ngành được trang bị 1.378 máy chủ các loại và hơn 11.000 máy trạm. Các Trung tâm dữ liệu đều được trang bị máy chủ cơ sở dữ liệu có chức năng xử lí cao và hệ thống lưu trữ backup dữ liệu chuyên dụng.

Vấn đề đảm bảo an toàn thông tin; mô hình, kiến trúc hệ thống ứng dụng đều được thực hiện đảm bảo theo quy định.

Về mô hình quản lí, vận hành hệ thống CNTT, đại diện Cục CNTT&TKHQ cho biết, việc quản lí được phân theo 3 khối gồm: cấp Tổng cục, cấp cục, cấp chi cục. Trong đó, ở cấp Tổng cục việc quản lí, vận hành do Cục CNTT&TKHQ đảm nhiệm; cấp cục do Trung tâm dữ liệu & CNTT và một số đơn vị nhỏ do cán bộ CNTT chuyên trách thực hiện; ở chi cục, mỗi đơn vị có từ 1 đến 2 cán bộ CNTT chuyên trách.


Hiện đại nhưng chưa đủ tầm

Mặc dù đã được đầu tư và có những bước tiến lớn nhưng so với yêu cầu thực tiễn và các mục tiêu hiện đại hóa của Ngành, thực trạng quản lí, vận hành hệ thống CNTT còn bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế. Đặc biệt những vấn đề này nếu không được khẩn trương giải quyết sẽ gây rất nhiều khó khăn cho việc tiếp nhận, vận hành VNACCS.

Theo Cục CNTT&TKHQ, hiện các chương trình ứng dụng của Ngành được triển khai tương đối rộng và phân tán, nên số lượng trang thiết bị, chương trình ứng dụng triển khai nhiều dẫn đến khối lượng công việc quản trị lớn và đầu tư dàn trải. Trong khi đó, yêu cầu với các ứng dụng nghiệp vụ ngày càng cao, việc xử lí hoàn toàn dựa trên máy tính theo xu hướng tích hợp dữ liệu và liên thông toàn quốc, vì vậy mô hình ứng dụng phân tán hiện nay không phù hợp. Bởi mô hình xử lí trong tương lai của ngành Hải quan là xử lí tập trung để không gây ách tắc trong quy trình thủ tục hải quan.

Hiện nay đội ngũ cán bộ CNTT còn thiếu và chưa đáp ứng yêu cầu về chuyên môn sâu để quản trị, vận hành các hệ thống CNTT trong bối cảnh công tác quản lí nhà nươcớc về Hải quan ngày càng tăng về quy mô, tính phức tạp, sử dụng công nghệ mới, hiện đại để đảm bảo an ninh an toàn của các hệ thống CNTT…

Trong khi đó, để đảm bảo các mục tiêu hiện đại hóa từ nay đến năm 2020, Hải quan Việt Nam sẽ phải quản lí, vận hành nhiều hệ thống CNTT hết sức phức tạp. Đó là các hệ thống CNTT cốt lõi như hệ thống VNACCS; các hệ thống CNTT đang ứng dụng phân tán hiện nay như Hệ thống KT559; hệ thống thanh toán thuế qua ngân hàng (E-Payment); hệ thống CNTT phục vụ thủ tục hải quan điện tử cho loại hình gia công, sản xuất xuất khẩu, chế xuất; hệ thống CNTT phục vụ công tác trị giá tính thuế; hệ thống CNTT phục vụ quản lí rủi ro; kết nối vào Cổng thông tin một cửa quốc gia (NSW); cung cấp dịch vụ công điện tử.

Tích cực chuẩn bị để tiếp quản, vận hành VNACCS



- Việc xây dựng và đưa vào vận hành Trung tâm quản lí, vận hành CNTT hải quan được kì vọng sẽ giải quyết bài toán quản lí hạ tầng CNTT của ngành Hải quan trong tương lai, đáp ứng yêu cầu điện tử hóa ở mức độ cao hơn của Ngành.


Theo Cục CNTT&TKHQ- đơn vị chủ trì xây dựng Đề án, sau khi Dự án VNACCS được chính thức triển khai, lãnh đạo Bộ Tài chính hết sức quan tâm đến vấn đề làm thế nào để Hải quan Việt Nam tiếp quản, vận hành sử dụng hiệu quả Hệ thống thông quan hiện đại này. Chính vì vậy, lãnh đạo Bộ chỉ đạo Tổng cục Hải quan phải khẩn trương xây dựng đề án liên quan đến Trung tâm dữ liệu.

Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế hoạt động hải quan hiện nay, Cục CNTT&TKHQ nhận thấy Trung tâm này không chỉ phục vụ việc vận hành VNACCS mà còn phải vận hành thêm một số hệ thống CNTT hiện có của Ngành. Bởi, do chính sách quản lí có những đặc thù riêng nên hoạt động Hải quan Việt Nam có một số khác biệt so với Hải quan Nhật Bản.

Vì vậy, hiện nay, Hải quan Việt Nam đang vận hành một số hệ thống CNTT khác gồm: Hệ thống KT559; hệ thống thanh toán thuế qua ngân hàng (E-Payment); hệ thống CNTT phục vụ thủ tục hải quan điện tử cho loại hình gia công, sản xuất xuất khẩu, chế xuất; hệ thống CNTT phục vụ công tác trị giá tính thuế; hệ thống CNTT phục vụ quản lí rủi ro. Khi VNACCS đi vào hoạt động, các hệ thống CNTT vệ tinh nêu trên sẽ được kết nối với hệ thống CNTT của VNACCS.

Ngoài ra, Hải quan Việt Nam còn có hệ thống CNTT kết nối Cổng thông tin Cơ chế một cửa quốc gia và cung cấp dịch vụ công (qua phương thức điện tử). Như vậy, khi đi vào hoạt động, Trung tâm sẽ phải quản lí, vận hành toàn bộ hệ thống CNTT ngành Hải quan, bao gồm cả VNACCS và các hệ thống liên quan

Để vừa đáp ứng yêu cầu tiếp nhận, vận hành VNACCS đúng theo lịch trình, đồng thời tạo được sự kết nối với các hệ thống CNTT hiện có của Hải quan Việt Nam, việc khẩn trương hoàn thành Trung tâm quản lí, vận hành hệ thống CNTT hải quan là hết sức cần thiết. Đại diện Cục CNTT&TKHQ cho biết, khi đi vào hoạt động Trung tâm chịu trách nhiệm tổ chức quản lí, vận  hành toàn bộ hệ thống CNTT tập trung của Ngành hoạt động thông suốt 24/7 (24 giờ/ngày và 7 ngày/tuần) đảm bảo an ninh, an toàn, đáp ứng yêu cầu nghiệp vụ, thực hiện thủ tục hải quan điện tử và Cơ chế một cửa quốc gia.

Duy trì hoạt động ổn định của hạ tầng truyền thông, kết nối các đơn vị trong ngành Hải quan với các cơ quan có liên quan. Sự ra đời của một Trung tâm cũng nhằm góp phần tạo nền tảng cho việc chuyển căn bản phương thức quản lí của Ngành theo hướng hiện đại, phù hợp định hướng phát triển của Hải quan Việt Nam và xu hướng phát triển của hải quan các nước trong khu vực và trên thế giới…

Một số mục tiêu cụ thể đối với Trung tâm quản lí, vận hành CNTT hải quan như: Đảm bảo tiếp nhận, vận hành VNACCS và các hệ thống CNTT tập trung ngành Hải quan; đảm bảo tính sẵn sàng và hệ thống hoạt động liên tục; có phương án dự phòng khi có sự cố xảy ra… Hình thành bộ phận riêng để hỗ trợ, giải quyết vướng mắc cho người sử dụng VNACCS; cung cấp dịch vụ công ngành Hải quan mức độ 4 và kết nối, chia sẻ thông tin với bộ, ngành…

Để đạt các mục tiêu trên, Đề án cũng đặt ra các nội dung công việc cụ thể đối với Trung tâm; giải pháp thực hiện. Đặc biệt, Tổng cục Hải quan cũng kiến nghị Bộ Tài chính tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách để Trung tâm vận hành đảm bảo tiến độ, chất lượng.

Giải pháp xây dựng Trung tâm quản lí khoa học, hiệu quả

- Theo Tổng cục Hải quan, để thực hiện tốt đề án về Trung tâm quản lí, vận hành CNTT hải quan phải triển khai đồng bộ 5 nhóm giải pháp cơ bản: Tổ chức bộ máy quản lí (của Trung tâm); giải pháp kĩ thuật; nguồn nhân lực; cơ chế tài chính và thuê khoán chuyên môn; mối quan hệ nghiệp vụ với các đơn vị nghiệp vụ.

Về cơ cấu tổ chức, để tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ, Trung tâm (tại trụ sở Tổng cục Hải quan) cần quy mô khoảng 5 phòng chuyên môn. Đồng thời chức năng nhiệm vụ của Trung tâm dữ liệu & CNTT của các cục hải quan địa phương cần được sửa đổi, bổ sung để phục vụ kết nối toàn bộ hệ thống CNTT trong Ngành và phù hợp với mô hình xử lí dữ liệu tập trung.

Với giải pháp kĩ thuật, vấn đề này đòi hỏi rất nhiều công việc liên quan. Đó là thiết lập hệ thống giám sát, vận hành hệ thống 24/7. Đầu tư hạ tầng kĩ thuật, cơ sở vật chất, các trang thiết bị máy móc thuộc Trung tâm đảm bảo đủ năng lực xử lí. Nâng cấp mạng diện rộng phù hợp với kiến trúc chung của hạ tầng ngành Tài chính, đảm bảo yêu cầu xử lí tập trung và vận hành 24/7, đảm bảo an toàn, an ninh, thông suốt…
Các giải pháp về nguồn nhân lực được xem là có vai trò then chốt. Theo đó, đội ngũ nhân lực cần được tăng cường lực lượng có chuyên môn sâu để đáp ứng yêu cầu quản lí, vận hành hệ thống CNTT, đặc biệt khi triển khai hệ thống VNACCS/VCIS. Bên cạnh đó, việc tổ chức đào tạo cho lực lượng cán bộ CNTT cũng hết sức quan trọng. Nội dung đào tạo tập trung vào phương pháp quản lí, vận hành hệ thống; quản trị hệ thống phần mềm; sử dụng hệ thống phần mềm; thao tác thiết bị đầu cuối. Để đáp ứng yêu cầu đặt ra, đại diện Cục CNTT&Thống kê Hải quan cho rằng, Bộ Tài chính cần xem xét cho cơ chế tuyển dụng đặc thù riêng với Trung tâm. Một số hình thức được đưa ra như: Luân chuyển từ một số đơn vị nghiệp vụ trong Ngành; hợp đồng vụ việc; hợp đồng dài hạn; tổ chức tuyển dụng.

Ngoài ra, Tổng cục Hải quan cũng đề xuất Bộ Tài chính giải pháp về cơ chế tài chính và thuê khoán chuyên môn. Trong đó, cơ quan Hải quan trực tiếp thực hiện các công việc chủ chốt như: Quản lí, vận hành Trung tâm; quản trị, giám sát 24/7 về tính trạng hoạt động, an ninh, kết nối truyền dẫn dữ liệu… Ngoài ra, Ngành phải sử dụng các dịch vụ có tính chất định kì liên quan đến việc bảo trì, bảo dưỡng hệ thống. 

Đó là, thuê dịch vụ bảo trì, bảo dưỡng, bảo hành mở rộng các trang thiết bị kĩ thuật bao gồm: Hệ thống điện, điều hòa, phòng chống cháy nổ, hệ thống an ninh (mạng), máy móc CNTT… Bảo trì, bảo dưỡng, bảo hành mở rộng hệ thống ứng dụng CNTT hải quan như VNACCS/VCIS, Cơ chế một cửa quốc gia (NSW) và các hệ thống CNTT khác. Hỗ trợ kĩ thuật với những công việc cần trình độ cao, chuyên sâu và xử lí các vấn đề kĩ thuật về phần cứng, phần mềm. Những dịch vụ thuê khoán có tính chất đột xuất như: Nâng cấp ứng dụng CNTT để đáp ứng sự thay đổi của chính sách quản lí; khắc phục sự cố kĩ thuật…
Đề án vừa được Tổng cục Hải quan trình Bộ Tài chính cũng đưa ra giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa Trung tâm với các đơn vị nghiệp vụ trong Ngành nhằm cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ, tránh trùng lặp trong quá trình thực hiện.

Kinh nghiệm quản lí hệ thống NACCS của Nhật Bản
 
Tại Nhật Bản, cơ quan Hải quan sử dụng hệ thống NACCS và CIS cùng với một số hệ thống vệ tinh khác để thông quan tự động hàng hóa XNK. Để quản lí, vận hành các hệ thống trên, một bộ máy tương ứng được hình thành với ba đơn vị chính là Trung tâm NACCS, Trung tâm Kudan và Văn phòng quản lí thông tin.

Trung tâm điều hành hệ thống thông quan hàng hóa tự động (NACCS)
Việc quản lí và điều hành Hệ NACCS được tập trung về Trung tâm NACCS. Trung tâm NACCS được thành lập vào tháng 5-1977 dưới hình thức một tổ chức thuộc Chính phủ và chuyển thành cơ quan hành chính độc lập vào tháng 10-2003. Đến tháng 10-2008, cơ quan này chính thức được cổ phần hóa, trong đó Nhà nước là cổ đông chi phối (chiếm trên 50%) để đảm bảo quyền kiểm soát của Chính phủ đối với việc bổ nhiệm Ban giám đốc cũng như vận hành toàn bộ hệ thống. 

Việc tư nhân hóa Trung tâm NACCS xuất phát từ đặc điểm là hệ thống NACCS phục vụ cho cả khu vực tư nhân và khu vực công, nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả cung ứng quốc tế và sức cạnh tranh giữa các cảng biển và sân bay.  Cũng từ đặc điểm này mà nhân sự tại đây được phân chia theo tỉ lệ 50/50, nghĩa là một nửa là nhân viên Chính phủ (cán bộ hải quan và một số cán bộ thuộc các cơ quan khác), nửa còn lại đến từ các công ty tư nhân lớn. Hiện Trung tâm NACCS có 107 người (khi mới thành lập có 25 người). Ban lãnh đạo gồm 1 Tổng giám đốc và 3 Giám đốc điều hành. Trung tâm NACCS có 5 phòng.

Các bên tham gia sử dụng và vận hành hệ thống NACCS bao gồm cả khối cơ quan công và khối tư nhân. Về phía các cơ quan Chính phủ có: cơ quan Hải quan; cơ quan quản lí nhập cư và hành khách xuất nhập cảnh; cơ quan kiểm dịch động, thực vật; cơ quan kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm, dược phẩm; cơ quan quản lí cảng; cơ quan biên phòng; các văn phòng quản lý thương mại; chính quyền địa phương... Đối với khối tư nhân, các đối tượng hoạt động trong lĩnh vực logistics, đại lý làm thủ tục hải quan, ngân hàng, thương nhân hoạt động XNK là những đối tượng chính tham gia sử dụng hệ thống.

Hiện nay, Trung tâm NACCS chịu trách nhiệm quản lí hệ thống NACCS và tham gia vào việc phát triển và nâng cấp chương trình và cung cấp các dịch vụ liên quan đến vận hành hệ thống NACCS. Để thực hiện nhiệm vụ này, Trung tâm NACCS kí hợp đồng với Công ty NTT Data để bảo trì, nâng cấp phát triển hệ thống.
Trung tâm này là đơn vị sự nghiệp có thu. Mọi giao dịch trên hệ thống NACCS đều được tính phí. Phí giao dịch sử dụng hệ thống NACCS chính là ngân sách để duy trì hoạt động của Trung tâm.

Trung tâm Kudan - vận hành, phát triển hệ thống CIS
Trung tâm Kudan là đơn vị thuộc Hải quan Nhật Bản, được thành lập trong bối cảnh tinh giản bộ máy tổ chức ở cấp trung ương và đẩy mạnh phân cấp về địa phương. Trung tâm Kudan được đặt tại Hải quan vùng Tokyo song ít chịu sự chi phối từ Hải quan Tokyo mà chủ yếu duy trì mối quan hệ dưới hình thức báo cáo, trao đổi, tham vấn trong công việc.

Trung tâm Kudan chịu trách nhiệm chính quản lí, vận hành, phát triển và nâng cấp hệ thống CIS (hệ thống thông tin hải quan phục vụ riêng cho mục đích quản lí của cơ quan Hải quan). Ngoài ra, Trung tâm Kudan cũng quản lí một số hệ thống vệ tinh nhỏ như COMTIS (Hệ thống thông tin và thu thuế đối với thư tín quốc tế), ACTIS (Hệ thống thông tin và thu thuế đối với hàng đường không), COMOS (Hệ thống kiểm tra và mạng thông tin hàng đường biển).
Bên cạnh đó, Trung tâm cũng phối hợp với Trung tâm NACCS tham gia quản lí và vận hành hệ thống NACCS ở một mức độ giới hạn, phần lớn liên quan đến nghiệp vụ hải quan như thuế suất, chính sách,…
Nhân sự tại Trung tâm Kudan là cán bộ, công chức hải quan được lựa chọn từ các lĩnh vực nghiệp vụ khác nhau, được đào tạo tại chỗ về kĩ năng quản lí, vận hành hệ thống. Trung tâm Kudan được cơ cấu thành 7 phòng chức năng với trên 60 biên chế.
Trung tâm Kudan kí hợp đồng với các công ty tin học để bảo trì kĩ thuật, hỗ trợ vận hành, nâng cấp phát triển hệ thống.

Văn phòng quản lí thông tin
Là đơn vị trực thuộc Tổng cục Hải quan Nhật Bản nằm trong Bộ Tài chính, có bộ máy gọn nhẹ với khoảng 12 người. Văn phòng chịu trách nhiệm giám sát tất cả các hệ thống CNTT, bao gồm cả hai trung tâm NACCS và Kudan, mạng thông tin. Văn phòng là nơi đưa ra quyết định về định hướng phát triển, nâng cấp các hệ thống CNTT của hải quan và chịu trách nhiệm về phân bổ ngân sách đầu tư, kiểm tra, giám sát mua sắm đấu thầu các hệ thống CNTT.

Nhìn vào mô hình tổ chức quản lí vận hành NACCS/CIS của Nhật Bản có thể thấy nó được hình thành từ nhu cầu tinh giản bộ máy trung ương và tăng cường sự tham gia của khu vực tư, qua đó nâng cao tính cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ song vẫn đảm bảo sự kiểm soát của Chính phủ đối với các hệ thống.


T.Bình
 


Tuyên bố trách nhiệm: Bài viết được lấy nguyên văn từ nguồn tin nêu trên. Mọi thắc mắc về nội dung bài viết xin liên hệ trực tiếp với tác giả. Chúng tôi sẽ sửa, hoặc xóa bài viết nếu nhận được yêu cầu từ phía tác giả hoặc nếu bài gốc được sửa, hoặc xóa, nhưng vẫn bảo đảm nội dung được lấy nguyên văn từ bản gốc khi đăng tải tại http://www.vnaccs.com.  
 Câu hỏi hoặc góp ý xin gửi tới email:vnaccs@gmail.com
Xin chân thành cảm ơn và kính chúc quý khách luôn thành công trong cuộc sống!

Thứ Hai, 19 tháng 8, 2013

Đào tạo chi tiết về VNACCS/VCIS

(vnaccs.com) - Sáng nay 19-8, tại Hà Nội, Tổng cục Hải quan tổ chức khai mạc Lớp đào tạo chi tiết về thủ tục hải quan trong VNACCS/VCIS. Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan Nguyễn Ngọc Túc dự và phát biểu chỉ đạo tại Lễ khai mạc.

Tổng cục trưởng Nguyễn Ngọc Túc nhấn mạnh: Tháng 4-2014, VNACCS/VCVIS sẽ vận hành chính thức. Đây là Hệ thống thông quan tự động hiện đại có tác động rất lớn đến việc thực hiện các mục tiêu về hiện đại hóa của Hải quan Việt Nam. Đồng thời VNACCS/VCIS cũng đáp ứng việc đi tắt, đón đầu trong xu thế hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng của đất nước.



Việc thực hiện thành công VNACCS/VCIS còn là giải pháp quan trọng để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ thu ngân sách.

Để vận hành đúng tiến độ, đảm bảo đạt các mục đích, yêu cầu đặt ra vấn đề đào tạo có vai trò hết sức quan trọng.

Từ nay đến 31-10-2013, ngành Hải quan sẽ tập trung tổ chức đào tạo chi tiết về thủ tục hải quan được thực hiện trong VNACCS/VCIS cho CBCC toàn Ngành và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cả nước.

Việc đào tạo được Tổng cục tổ chức theo 3 khu vực: Miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Đối tượng được Tổng cục đào tạo là đội ngũ chuyên gia các cục hải quan địa phương. Sau đó đội ngũ chuyên gia sẽ có trách nhiệm đào tạo lại cho CBCC từng đơn vị và doanh nghiệp trên địa bàn. 

Tổng cục trưởng Nguyễn Ngọc Túc yêu cầu các học viên tham dự Lớp đào tạo cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện đúng các nội quy, quy chế lớp học để việc đào tạo đạt hiệu quả cao nhất. Đặc biệt đây là những chuyên gia các cục hải quan địa phương có trách nhiệm tiếp thu và đào tạo lại cho CBCC ở từng đơn vị và doanh nghiệp những người trực tiếp sử dụng VNACCS/VCIS sau này. 

Tổng cục trưởng nhấn mạnh công tác tuyên truyền về việc triển khai VNACCS/VCIS cần tiếp tục tăng cường hơn nữa, nhằm giúp Chính phủ, Bộ Tài chính, các bộ, ngành, địa phương và cộng đồng xã hội thấy được vai trò, tầm quan trọng của VNACCS/VCIS đối với hoạt động hải quan, qua đó ủng hộ, hợp tác để thực hiện thành công VNACCS/VCIS.

Tổng cục trưởng Nguyễn Ngọc Túc cũng dành lời cảm ơn chân thành tới đội ngũ chuyên gia đến từ Hải quan Nhật Bản đã hỗ trợ nhiệt tình, đầy tinh thần trách nhiệm và hiệu quả để việc thực hiện Dự án đảm bảo tiến độ, chất lượng đặt ra.

Lớp đào tạo đầu tiên diễn ra tại Hà Nội trong 5 ngày (từ 19 đến 23-8) với sự tham gia của các CBCC là chuyên gia đến từ 11 Cục Hải quan địa phương khu vực phía Bắc gồm: Hà Nội, Hải Phòng, Cao Bằng, Hà Giang, Điện Biên, Lào Cai, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An; giảng viên về Hệ thống VNACCS/VCIS của Trường Hải quan Việt Nam; một số cán bộ nghiệp vụ các cơ quan thuộc Tổng cục Hải quan: Cục Giám sát quản lí về hải quan, Cục Thuế xuất nhập khẩu, Cục Kiểm tra sau thông quan, Ban Quản lí rủi ro về hải quan, Ban Cải cách hiện đại hóa hải quan.

Ông Nguyễn Mạnh Tùng- Cục trưởng Cục CNTT& Thống kê Hải quan, kiêm Phó Trưởng ban Thường trực Ban triển khai Dự án VNACCS/VCIS cho biết, VNACCS/VCIS sẽ bao trùm lên rất nhiều hoạt động của Hải quan Việt Nam. Nhưng quan trọng nhất, chiếm số lượng lớn nhất vẫn là về quy trình thủ tục hải quan.

Chính vì vậy, đây là nội dung có thời gian đào tạo nhiều nhất trong lớp học lần này. Cán bộ của Ban triển khai Dự án sẽ giới thiệu tất cả quy trình thủ tục được sử dụng trong VNACCS như: Kiểm tra, giám sát hải quan; quy trình thu thuế xuất nhập khẩu…
Nội dung đào tạo thứ hai là về nghiệp vụ quản lí rủi ro dành cho cán bộ công chức làm nhiệm vụ này.

Nội dung đào tạo thứ ba về CNTT dành cho cán bộ làm công tác về CNTT.
Sau Lớp đào tạo tại Hà Nội, Tổng cục sẽ tổ chức tiếp các lớp đào tạo tương tự ở khu vực miền Trung và miền Nam. Với vai trò quan trọng của công tác này nên tất cả các lớp đào tạo ở các khu vực do Tổng cục tổ chức sẽ có sự tham dự của lãnh đạo Tổng cục.

(Theo HQonline, tác giả: Thái Bình)



Tuyên bố trách nhiệm: Bài viết được lấy nguyên văn từ nguồn tin nêu trên. Mọi thắc mắc về nội dung bài viết xin liên hệ trực tiếp với tác giả. Chúng tôi sẽ sửa, hoặc xóa bài viết nếu nhận được yêu cầu từ phía tác giả hoặc nếu bài gốc được sửa, hoặc xóa, nhưng vẫn bảo đảm nội dung được lấy nguyên văn từ bản gốc khi đăng tải tại http://www.vnaccs.com.  
 Câu hỏi hoặc góp ý xin gửi tới email:vnaccs@gmail.com
Xin chân thành cảm ơn và kính chúc quý khách luôn thành công trong cuộc sống!

Chủ Nhật, 18 tháng 8, 2013

Chỉ thị của Tổng cục trưởng về việc đẩy mạnh công tác đào tạo cho người sử dụng Hệ thống VNACCS/VCIS trong phạm vi toàn quốc

Chỉ thị của Tổng cục trưởng về việc đẩy mạnh công tác đào tạo cho người sử dụng Hệ thống VNACCS/VCIS trong phạm vi toàn quốc


BỘ TÀI CHÍNH
TỔNG CỤC HẢI QUAN
CỘNG HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: 4388/CT-TCHQ
Hà Nội, ngày  1 tháng 8 năm 2013
CHỈ THỊ

Về việc đẩy mạnh công tác đào tạo cho người sử dụng
Hệ thống VNACCS/VCIS trong phạm vi toàn quốc

Được sự nhất trí của Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Nhật Bản, Nhật Bản viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam “Dự án xây dựng, triển khai hải quan điện tử và cơ chế một cửa quốc gia phục vụ hiện đại hóa hải quan tại Việt Nam” (gọi tắt là Dự án VNACCS/VCIS) với thời gian thực hiện từ tháng 3/2012 đến 3/2014.
Mục tiêu của Dự án là nhằm chuyển giao cho Hải quan Việt Nam hệ thống tự động hóa đang được Cơ quan Hải quan và các cơ quan chính phủ của Nhật Bản áp dụng trong lĩnh vực quản lý hải quan cũng như thực hiện Cơ chế hải quan một cửa quốc gia tại Nhật Bản. Hệ thống được chuyển giao cho phía Việt Nam sẽ trở thành công cụ hữu hiệu hỗ trợ Hải quan Việt Nam cũng như các cơ quan chính phủ khác có liên quan triển khai thành công Cơ chế hải quan một cửa quốc gia theo cam kết của Chính phủ Việt Nam trong khu vực; tạo thuận lợi thương mại, đầu tư tại Việt Nam cũng như tăng cường tính hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước nói chung và công tác quản lý nhà nước về hải quan nói riêng.
Việc Hải quan Việt Nam làm chủ Hệ thống VNACCS/VCIS là đòi hỏi và cũng là quyết tâm chính trị rất cao từ Lãnh đạo Chính phủ đến Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan. Do thời gian triển khai dự án rất ngắn và khẩn trương, để làm chủ được hệ thống, một trong những giải pháp quan trọng là tổ chức đào tạo thành công thực hiện thông quan điện tử trên Hệ thống VNACCS/VCIS.
Trong thời gian vừa qua, Tổng cục Hải quan đã ban hành Kế hoạch đào tạo cho người sử dụng Hệ thống VNACCS/VCIS theo Quyết định số 192/QĐ-TCHQ ngày 22/01/2013. Đến nay, công tác đào tạo đã kịp thời phổ cấp kiến thức tổng quan về Hệ thống VNACCS/VCIS cho tất cả lãnh đạo chủ chốt và cán bộ tham mưu, nghiệp vụ trong toàn Ngành, góp phần nâng cao nhận thức chung về việc triển khai hệ thống.
Tuy nhiên, để có thể làm chủ thực sự Hệ thống VNACCS/VCIS, đòi hỏi cán bộ, công chức hải quan, doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các đơn vị liên quan phải hiểu sâu sắc, đầy đủ về quy trình, nghiệp vụ của hệ thống. Do đó, hơn lúc nào hết, công tác đào tạo thực hiện thông quan điện tử trên Hệ thống VNACCS/VCIS cần phải được đẩy mạnh và thực hiện quyết liệt hơn nữa.
Để đảm bảo mục tiêu đề ra, Tổng cục trưởng chỉ thị như sau:
1.   Ban Triển khai dự án VNACCS/VCIS có trách nhiệm:
-   Phối hợp với các đơn vị liên quan tiếp tục tổ chức thực hiện có hiệu quả Kế hoạch đào tạo cho người sử dụng Hệ thống VNACCS/VCIS theo Quyết định số 192/QĐ-TCHQ ngày 22/01/2013 của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan.
-   Tập trung tối đa đào tạo, xây dựng được đội ngũ chuyên gia cho các Cục Hải quan tỉnh, thành phố có đủ năng lực để tổ chức triển khai Hệ thống VNACCS/VCIS trong toàn quốc.
-   Chuyển giao toàn bộ công nghệ, kiến thức, bí quyết về Hệ thống VNACCS/VCIS cho các đơn vị chức năng trong toàn Ngành trước khi Dự án VNACCS/VCIS kết thúc.
-   Điều phối, theo dõi, giám sát, đôn đốc, hướng dẫn, hỗ trợ công tác đào tạo về Hệ thống VNACCS/VCIS của các Cục Hải quan tỉnh, thành phố.
2.   Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc cơ quan Tổng cục có trách nhiệm:
-   Tập trung thành lập đội ngũ chuyên gia của đơn vị mình về Hệ thống VNACCS/VCIS, đảm bảo đủ năng lực để hướng dẫn các Cục Hải quan tỉnh, thành phố về các lĩnh vực thuộc chức năng nhiệm vụ của đơn vị mình có liên quan đến Hệ thống VNACCS/VCIS thông qua việc cử chuyên gia tham gia các lớp đào tạo về Hệ thống VNACCS/VCIS do Tổng cục tổ chức.
-   Hiệu trưởng Trường Hải quan Việt Nam khẩn trương thành lập đội ngũ giảng viên, tạo điều kiện để đội ngũ giảng viên tham gia đào tạo, tập huấn về Hệ thống VNACCS/VCIS, đảm bảo đủ năng lực đào tạo lại cho cán bộ, công chức trong toàn Ngành và các đối tượng liên quan sau khi Dự án VNACCS/VCIS kết thúc. 
3.   Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, thành phố có trách nhiệm:
-    Trên cơ sở hướng dẫn của Tổng cục, chủ động và phối hợp chặt chẽ với Ban Triển khai dự án VNACCS/VCIS của Tổng cục để xây dựng kế hoạch và tổ chức đào tạo một cách hiệu quả, khoa học cho cán bộ, công chức hải quan và doanh nghiệp xuất nhập khẩu trên địa bàn.
-    Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, thành phố chịu trách nhiệm về việc triển khai thành công Hệ thống VNACCS/VCIS tại đơn vị mình và coi đây là một nhiệm vụ chính trị quan trọng của đơn vị. Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, thành phố dành ưu tiên cao nhất và tập trung xây dựng được đội ngũ chuyên gia về Hệ thống VNACCS/VCIS, đảm bảo đủ năng lực triển khai thành công hệ thống tại đơn vị.
-    Chỉ đạo các Chi cục Hải quan, đơn vị trực thuộc quán triệt cho cán bộ, công chức chủ động, tích cực, linh hoạt tiếp cận quy trình nghiệp vụ tương lai, tham gia nghiên cứu và tập huấn các cơ chế chính sách mới một cách nghiêm túc, toàn diện và đầy đủ để vận hành hệ thống.
Các đơn vị thuộc và trực thuộc Tổng cục Hải quan có trách nhiệm phối hợp và hỗ trợ Ban Triển khai dự án VNACCS/VCIS thực hiện tốt nhiệm vụ đặt ra tại Chỉ thị này.
Trong quá trình thực hiện, Ban Triển khai dự án VNACCS/VCIS thường xuyên tiến hành kiểm tra, đôn đốc tiến độ, định kỳ hàng tháng báo cáo Tổng cục trưởng về việc thực hiện Chỉ thị này./.
Nơi nhận:
-    Lãnh đạo Bộ (để báo cáo);
-    Các đơn vị thuộc và trực thuộc (để t/h);
-    Lưu: VT, TCHQ (3b).
TỔNG CỤC TRƯỞNG
Đã ký
Nguyễn Ngọc Túc
 (Nguồn: www.customs.gov.vn)


Tuyên bố trách nhiệm: Bài viết được lấy nguyên văn từ nguồn tin nêu trên. Mọi thắc mắc về nội dung bài viết xin liên hệ trực tiếp với tác giả. Chúng tôi sẽ sửa, hoặc xóa bài viết nếu nhận được yêu cầu từ phía tác giả hoặc nếu bài gốc được sửa, hoặc xóa, nhưng vẫn bảo đảm nội dung được lấy nguyên văn từ bản gốc khi đăng tải tại http://www.vnaccs.com.  
 Câu hỏi hoặc góp ý xin gửi tới email:vnaccs@gmail.com
Xin chân thành cảm ơn và kính chúc quý khách luôn thành công trong cuộc sống!

my thoughts

CÓ NHIỀU VIỆC TA CẦN LÀM TRONG ĐỜI, TRUOC HẾT LÀ LÀM 1 NGƯỜI TỐT.
Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More

 
Email: vnaccs@gmail.com