Thứ Tư, 25 tháng 9, 2013

Tài liệu hướng dẫn thực hiện các nghiệp vụ đối với phương tiện vận tải trên hệ thống VNACCS

(VNACCS.com) - Để tìm hiểu về việc thực hiện các nghiệp vụ đối với phương tiện vận tải trên hệ thống VNACCS, bạn đọc có thể tải về và tham khảo tài liệu tại đây.

Hoặc sử dụng link dự phòng tại đây



Tuyên bố trách nhiệm: Bài viết được lấy nguyên văn từ nguồn tin nêu trên. Mọi thắc mắc về nội dung bài viết xin liên hệ trực tiếp với tác giả. Chúng tôi sẽ sửa, hoặc xóa bài viết nếu nhận được yêu cầu từ phía tác giả hoặc nếu bài gốc được sửa, hoặc xóa, nhưng vẫn bảo đảm nội dung được lấy nguyên văn từ bản gốc khi đăng tải tại http://www.vnaccs.com.  
 Câu hỏi hoặc góp ý xin gửi tới email:vnaccs@gmail.com
Xin chân thành cảm ơn và kính chúc quý khách luôn thành công trong cuộc sống!

Tài liệu hướng dẫn thực hiện thủ tục thông quan hàng hóa XNK trên hệ thống VNACCS

(VNACCS.com) -  Để thực hiện thủ tục thông quan hàng hóa XNK trên hệ thống VNACCS, bạn đọc có thể tải về để tham khảo tài liệu hướng dẫn tại đây.

Hoặc sử dụng link dự phòng tại đây.    





(Theo TCHQ)


Tuyên bố trách nhiệm: Bài viết được lấy nguyên văn từ nguồn tin nêu trên. Mọi thắc mắc về nội dung bài viết xin liên hệ trực tiếp với tác giả. Chúng tôi sẽ sửa, hoặc xóa bài viết nếu nhận được yêu cầu từ phía tác giả hoặc nếu bài gốc được sửa, hoặc xóa, nhưng vẫn bảo đảm nội dung được lấy nguyên văn từ bản gốc khi đăng tải tại http://www.vnaccs.com.  
 Câu hỏi hoặc góp ý xin gửi tới email:vnaccs@gmail.com
Xin chân thành cảm ơn và kính chúc quý khách luôn thành công trong cuộc sống!

Thứ Hai, 23 tháng 9, 2013

Cục Hải quan tỉnh Cà Mau chuẩn bị đào tạo chi tiết hệ thống VNACCS/VCIS

(VNACCS.com) - Quán triệt Chỉ số 4388/CT-TCHQ ngày 01/8/2013 của Tổng cục Hải quan về việc đẩy mạnh công tác đào tạo cho người sử dụng hệ thống VNACCS/VCIS trong phạm vi toàn quốc. Cục Hải quan tỉnh Cà Mau tiến hành các bước chuẩn bị đào tạo chi tiết hệ thống VNACCS/VCIS cho cán bộ, công chức Hải quan và Doanh nghiệp.


          Ngày 19/8/2013 Cục Hải quan tỉnh Cà Mau đã ban hành Quyết định số 107/QĐ-HQCM về việc thành lập Nhóm chuyên gia về Hệ thống VNACCS/VCIS; Kế hoạch số 730/KH-HQCM về đào tạo chi tiết Hệ thống VNACCS/VCIS cho cán bộ, công chức Hải quan và Doanh nghiệp.

          Theo đó Nhóm chuyên gia có nhiệm vụ tham gia đầy đủ các khóa đào tạo, tập huấn về Hệ thống VNACCS/VCIS do Tổng cục Hải quan tổ chức; đồng thời nghiên cứu, tổ chức đào tạo, hướng dẫn sử dụng Hệ thống VNACCS/VCIS cho cán bộ, công chức hải quan và Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trên địa bàn đảm bảo sau khi đào tạo cán bộ, công chức Hải quan và Doanh nghiệp hiểu sâu sắc, đầy đủ quy trình nghiệp vụ và sử dụng được Hệ thống.

          Tổng cục Hải quan tổ chức 03 đợt đào tạo chi tiết Hệ thống VNACCS/VCIS trên phạm vi toàn ngành. Đợt thứ nhất tổ chức từ ngày 19-23/8/2013 tại trụ sở Tổng cục Hải quan cho 11 Cục Hải quan các tỉnh phía Bắc. Đợt thứ hai tổ chức từ ngày 26-30/8/2013 tại tỉnh Khánh Hòa cho 11 Cục Hải quan các tỉnh miền Trung và Tây nguyên. Đợt thứ ba tổ chức từ ngày 09-14/9/2013 tại tỉnh Bình Dương cho 12 Cục Hải quan các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam bộ.

Cục Hải quan tỉnh Cà Mau được Tổng cục Hải quan đào tạo chi tiết Hệ thống từ  ngày 09-14/9/2013. Theo Kế hoạch, sau khi được Tổng cục Hải quan đào tạo Cục Hải quan tỉnh Cà Mau sẽ tiến hành tổ chức đào tạo lại cho cán bộ, công chức Hải quan và Doanh nghiệp trên địa bàn. Lớp đào tạo cho cán bộ, công chức Hải quan dự kiến từ ngày 24-27/9/2013; lớp đào tạo cho cộng đồng Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trên địa bàn dự kiến từ ngày 01-04/10/2013.
( Theo HQ Cà Mau, Tác giả bài viết: Thu Hương)


Tuyên bố trách nhiệm: Bài viết được lấy nguyên văn từ nguồn tin nêu trên. Mọi thắc mắc về nội dung bài viết xin liên hệ trực tiếp với tác giả. Chúng tôi sẽ sửa, hoặc xóa bài viết nếu nhận được yêu cầu từ phía tác giả hoặc nếu bài gốc được sửa, hoặc xóa, nhưng vẫn bảo đảm nội dung được lấy nguyên văn từ bản gốc khi đăng tải tại http://www.vnaccs.com.  
 Câu hỏi hoặc góp ý xin gửi tới email:vnaccs@gmail.com
Xin chân thành cảm ơn và kính chúc quý khách luôn thành công trong cuộc sống!

VNACCS/VCIS - Biểu tượng trong hợp tác Hải quan Việt-Nhật

(VNACCS.com) - Hợp tác Việt-Nhật trong lĩnh vực hải quan, Dự án thông quan tự động VNACCS/VCIS được xem là dấu son tiêu biểu.

Hệ thống thông quan hiện đại 


Ngày 22-3-2012, được sự ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ hai nước, lãnh đạo Bộ Tài chính đã kí kết và trao đổi Công hàm và Hiệp định tài trợ cho Dự án “Xây dựng, triển khai hải quan điện tử và thực hiện Cơ chế hải quan một cửa quốc gia phục vụ hiện đại hóa hải quan” (gọi tắt là Dự án VNACCS/VCIS) với Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam và Trưởng đại diện Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tại Việt Nam, trị giá 2,661 tỉ Yên.

Có thể nói, đây là cột mốc quan trọng về hợp tác giữa Việt Nam và Nhật Bản thông qua việc hỗ trợ công tác hiện đại hóa Hải quan Việt Nam phục vụ mục tiêu sớm đưa nước ta vào nhóm các nước có nền hải quan hiện đại hàng đầu khu vực Đông Nam Á.
Việc thực hiện VNACCS/VCIS có tầm quan trọng đặc biệt đối với ngành Hải quan
Trong Hội nghị giới thiệu về VNACCS/VCIS giữa năm 2012, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan Nguyễn Ngọc Túc nhấn mạnh, việc thực hiện VNACCS/VCIS có tầm quan trọng đặc biệt và ý nghĩa to lớn đối với ngành Hải quan. Bởi sự ra đời của Dự án đã chấm dứt thời kì “khủng hoảng” trong việc lựa chọn hệ thống CNTT của Hải quan Việt Nam. Thứ hai, giúp Ngành đổi mới phương thức quản lí, thói quen và kinh nghiệm theo phương thức quản lí tiên tiến của thế giới. Thứ ba, góp phần quan trọng để thực hiện thành công các mục tiêu của Kế hoạch cải cách, phát triển và hiện đại hóa Hải quan giai đoạn 2011-2015 và Chiến lược phát triển Hải quan đến năm 2020 là “Hải quan Việt Nam đạt trình độ tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á”.

Ông Nguyễn Mạnh Tùng - Cục trưởng Cục CNTT&Thống kê Hải quan (Tổng cục Hải quan) thời điểm đó là Phó trưởng Ban Thường trực Ban Cải cách hiện đại hóa Hải quan chia sẻ: Để phục vụ yêu cầu cải cách, hiện đại hoá, trong nhiều năm qua ngành Hải quan luôn chú trọng tìm kiếm một hệ thống CNTT hiện đại để đáp ứng mục tiêu của Ngành và yêu cầu từ Chính phủ, Bộ Tài chính.

Để thực hiện, song song với các công việc liên quan đến cải cách, hiện đại hoá, Hải quan Việt Nam luôn tìm hiểu về hệ thống thông quan tự động ở các quốc gia phát triển. Bởi ngành Hải quan xác định việc xây dựng một hệ thống CNTT đủ mạnh là yêu cầu cấp thiết và quan trọng để có thể đưa Hải quan Việt Nam sớm đạt trình độ các nước tiên tiến trong khu vực, đáp ứng được yêu cầu hội nhập, phát triển.

Trên thế giới, thường có 3 cách để đầu tư một hệ thống CNTT. Thứ nhất, tự đầu tư, phát triển; thứ hai, mua sản phẩm có sẵn; thứ ba, hợp tác song phương để sử dụng.

Sau khi nghiên cứu và cân nhắc với tình hình thực tế, Hải quan Việt Nam quyết định đi theo con đường thứ ba - hợp tác song phương. Sau khi chủ trương này được thống nhất, Tổng cục Hải quan đã tiến hành khảo sát ở một số nước có trình độ tiên tiến. Trong quá trình khảo sát hệ thống Công nghệ thông quan tự động- NACCS (Automated Cargo Clearance System), phía bạn đã chủ động đề xuất gói hỗ trợ công nghệ này.

NACCS không chỉ tự động xử lí các thủ tục hải quan và các thủ tục hành chính liên quan khác mà còn xử lí các thông tin về quản lí hàng hóa được trao đổi trong khối DN. Hệ thống NACCS đảm bảo xử lí nhanh chóng, chính xác và hiệu quả các thủ tục hành chính liên quan và đơn giản hóa công việc của người sử dụng; đảm bảo xử lí khoảng 1 giây/ giao dịch, cho phép hoạt động 24 giờ/365 ngày (đạt tới mức độ 99,99%). Điều này giúp giảm áp lực cho tất cả người sử dụng, nâng cao hiệu quả hoạt động.

Vào tháng 5-2011, Quốc Vụ khanh, Thứ trưởng Bộ Tài chính Nhật Bản đã chuyển thư của Bộ trưởng Tài chính (thời điểm đó) Yoshihiko Noda cho Đoàn khảo sát của Hải quan Việt Nam đề xuất trao gói viện trợ về công nghệ NACCS. Nhật Bản sẽ xem xét viện trợ không hoàn lại nếu có yêu cầu từ Việt Nam. Sau khi nhận được đề xuất từ phía bạn, Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Tài chính Việt Nam đã có thư cảm ơn và đề nghị Nhật Bản viện trợ không hoàn lại. Đồng thời Chính phủ hai bên chỉ đạo Bộ Tài chính mỗi nước tiếp tục triển khai các công việc liên quan.

Sau khi đại diện Hải quan hai nước thống nhất các nội dung liên quan, đại diện lãnh đạo Bộ Tài chính đã kí kết các văn kiện liên quan với Đại sứ và Trưởng đại diện JICA của Nhật Bản như đề cập ở trên.

Đảm bảo tiến độ

Sau khi các văn kiện quan trọng được đại diện Chính phủ hai nước kí kết, Hải quan Việt Nam với sự giúp đỡ của các chuyên gia đến từ Hải quan Nhật Bản đã khẩn trương thực hiện các công việc liên quan nhằm đảm bảo vận hành VNACCS/VCIS đúng tiến độ, đạt chất lượng. Theo kế hoạch, tháng 4-2014, Hệ thống được vận hành chính thức.

Hiện nay, các nhóm làm việc thuộc Ban triển khai Dự án VNACCS/VCIS (Tổng cục Hải quan) đã hoàn thành thiết kế chi tiết và ngành Hải quan đang tập trung công tác đào tạo cho đội ngũ CBCC trong Ngành. Theo thiết kế chi tiết, VNACCS/VCIS sẽ bao trùm gần 200 hoạt động nghiệp vụ khác nhau của Hải quan Việt Nam. Ngoài việc thực hiện thủ tục hải quan điện tử thông thường như hiện nay, VNACCS/VCIS còn điện tử hóa rất nhiều hoạt động nghiệp vụ khác như thanh toán thuế, lệ phí điện tử; thực hiện e-Manifest và xa hơn là điện tử hóa thủ tục của các bộ, ngành liên quan đến hoạt động XNK…

Ông Nguyễn Mạnh Tùng cho biết, để CBCC hải quan và các đối tượng sử dụng ngoài Ngành, đặc biệt là DN XNK có thể sớm nắm bắt để chủ động triển khai (từ quá trình chạy thử nghiệm vào cuối năm nay và thực hiện chính thức vào đầu năm 2014), vấn đề đào tạo hết sức quan trọng. Tổng cục sẽ tổ chức đào tạo cho đội ngũ chuyên gia ở các cục hải quan địa phương. Sau đó, đội ngũ chuyên gia có trách nhiệm thực hiện đào tạo cho CBCC của từng đơn vị và các DN XNK trên địa bàn.

Hệ thống thông quan này có mức tự động hóa rất cao sẽ mang lại nhiều lợi ích cho DN và CBCC hải quan. Tuy nhiên, để nắm bắt và thực hiện được, cả CBCC hải quan và người sử dụng ngoài Ngành phải được đào tạo một cách bài bản, có hệ thống. Hiện nay, số lượng người sử dụng cần đào tạo rất lớn nếu không có sự chung tay, quyết tâm cao độ của các cục hải quan địa phương sẽ rất khó đảm bảo được tiến độ thực hiện Dự án. Theo tính toán của Ban triển khai Dự án VNACCS/VCIS, số CBCC hải quan cần đào tạo khoảng 6.000 người và số DN XNK đang thực hiện thủ tục hải quan điện tử (đối tường cần đào tạo) từ đầu năm 2013 đến nay cũng lên đến hơn 40.000 DN.

Để đảm bảo lộ trình thực hiện Dự án, Tổng cục Hải quan vừa quyết định huy động 50 CBCC của 6 đơn vị nghiệp vụ thuộc cơ quan Tổng cục gồm: Cục CNTT&Thống kê Hải quan, Cục Giám sát quản lí về hải quan, Cục Thuế XNK, Vụ Pháp chế, Ban Quản lí rủi ro về hải quan, Ban Cải cách hiện đại hóa hải quan tham gia làm việc chuyên trách tại Ban triển khai Dự án VNACCS/VCIS.

Với sự hỗ trợ, tạo điều kiện của Chính phủ, lãnh đạo Bộ Tài chính, sự hỗ trợ nhiệt tình, hiệu quả của các chuyên gia đến từ Hải quan Nhật Bản và quyết tâm cao độ của ngành Hải quan, hy vọng VNACCS/VCIS sẽ vận hành đúng lộ trình, đảm bảo chất lượng để tạo thuận lợi hơn nữa cho cộng đồng, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của đất nước.
Kết quả về cải cách hiện đại hóa hải quan là thấy rõ
Ông Nguyễn Anh Tuấn, Chi cục trưởng Chi cục Hải quan khu công nghiệp Bắc Thăng Long:
Địa bàn Khu công nghiệp Bắc Thăng Long do chi cục quản lý có tới 98% là DN Nhật Bản hoạt động sản xuất, kinh doanh. Qua quá trình quản lý việc thực hiện thủ tục hải quan của DN, tôi đánh giá cao DN Nhật Bản trong việc chấp hành pháp luật. Điều này được đánh giá từ việc đến thời điểm này gần như tại chi cục các DN Nhật Bản không có sai phạm liên quan đến buôn lậu, gian lận thương mại.

Để giúp DN thực hiện tốt pháp luật hải quan, hàng năm chi cục đều tổ chức tuyên truyền phổ biến các văn bản mới của ngành, kết hợp với trao đổi giải quyết vướng mắc phát sinh trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện. Trong các cuộc đối thoại, DN Nhật Bản rất thẳng thắn trong việc trao đổi thông tin, vướng mắc về thủ tục với cơ quan Hải quan. Thông qua việc giải đáp trực tiếp vướng mắc từ phía cơ quan Hải quan giúp DN hiểu pháp luật, từ đó chấp hành, thực hiện tốt pháp luật.  

Bản thân DN trong quá trình thực hiện, nếu phát hiện có sai xót về thủ tục hải quan liên quan đến số thuế phải nộp, DN sẵn sàng đề nghị cơ quan Hải quan làm lại cho đúng, mặc dù có thể dẫn đến việc sẽ phải nộp thêm thuế. Điều đó thể hiện sự tuân thủ pháp luật của DN Nhật Bản.

Ông Yoshito Toki, Giám đốc Công ty TNHH Nippo Mechatronics Việt Nam:

Công ty TNHH Nippo Mechatronics (Việt Nam) hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, lắp ráp các sản phẩm nhựa chính xác và sản xuất, gia công, lắp ráp, thiết kế khuôn mẫu. Trong quá trình hoạt động sản xuất tại Việt Nam, chúng tôi đã nhận được sự hỗ trợ kịp thời từ phía cơ quan Hải quan. Tuy nhiên, tôi thấy rằng việc thực hiện thủ tục hải quan tại Việt Nam có một số khác biệt so với Nhật Bản. Ở Nhật Bản tất cả những nguyên vật liệu đều có một mã số, mã số được quy định dựa trên bản chất của nguyên liệu đó.

 Tất cả giấy tờ quản lý chỉ thể hiện mã số số, từ đó chúng tôi có căn cứ để nộp thuế. Nhưng ở Việt Nam, toàn bộ những thông tin từ tên sản phẩm, mã số, bản chất nguyên liệu đều phải được thể hiện trên tất cả các giấy tờ liên quan. Chính vì vậy, nhiều trương hợp có sự sai sót trong việc khai báo và nộp thuế. Điều này sẽ ảnh hưởng đến thời gian hoàn thành thủ tục của DN. Bên cạnh đó, tôi thấy rằng, một số thủ tục hải quan cũng cần phải đơn giản hơn. Ví dụ như công ty nhập khẩu một số nguyên liệu để gia công từ nhà cung cấp của Nhật Bản. Do đó là loại hàng hóa đặc thù cần phải bảo quản cẩn thận, khi nhập khẩu, nhà cung cấp sẽ phải sử dụng một số giá đỡ, lõi, hộp đi kèm để bảo quản nguyên liệu cuộn phim. Sau đó DN sẽ trả lại các loại vỏ, giá đỡ đó cho nhà cung cấp, và mỗi lần trả chúng tôi đều phải làm thủ tục hải quan. Ở Nhật DN sẽ không phải làm thủ tục đối với các loại hàng hóa đó.

Đặc biệt, tới đây khi Hải quan Việt Nam triển khai hệ thống thông quan điện tử tự động VNACCS/VCIS, chúng tôi tin rằng việc thực hiện thủ tục hải quan của DN sẽ có những thay đổi đáng kể về thời gian và thủ tục thực hiện. Vì hiện tại đâu đó vẫn còn có những khó khăn cho DN.

Ông Hiroshi Horaguchi, Giám đốc Công ty TNHH điện tử Noble Việt Nam:
Sau hơn 10 năm hoạt động sản xuất tại Việt Nam, Những thay đổi trong công tác cải cách hiện đại hóa hải quan là điều mà chúng tôi nhận thấy rõ nhất, điều này được thể hiện ở việc Hải quan Việt Nam triển khai thủ tục hải quan điện tử. Đây là hệ thống tốt, đã tạo điều kiện thuận lợi cho DN trong quá trình làm thủ tục. 

Trong hoạt động sản xuất, Noble đang nỗ lực để đạt được các tiêu chí để được công nhận là DN ưu tiên. Năm 2012, công ty đã làm thủ tục để được công nhận là DN ưu tiên nhưng vẫn chưa đạt được tiêu chí kim ngạch XNK, chúng tôi rất tiếc về điều này. Hiện nay, chúng tôi đang phấn đấu kim ngạch XNK năm 2014 sẽ phải tăng gấp 3 lần năm 2010. Điều đáng mừng là năm 2011, toàn bộ dây chuyền sản xuất từ Trung Quốc đã chuyển về Việt Nam, điều này đánh dấu một sự thay đổi lớn của công ty. Chúng tôi hy vọng đây sẽ là cơ hội tốt để có thể gia tăng kim ngạch XNK đáp ứng tiêu chí để được công nhận là DN ưu tiên. Cùng với việc gia tăng hoạt động sản xuất kinh doanh, chúng tôi hy vọng tiếp tục nhận được sự hỗ trợ của cơ quan Hải quan trong việc làm thủ tục cũng như giải quyết vướng mắc phát sinh.
N.LINH (ghi)



(Theo HQonline, tác giả: T.Bình)


Tuyên bố trách nhiệm: Bài viết được lấy nguyên văn từ nguồn tin nêu trên. Mọi thắc mắc về nội dung bài viết xin liên hệ trực tiếp với tác giả. Chúng tôi sẽ sửa, hoặc xóa bài viết nếu nhận được yêu cầu từ phía tác giả hoặc nếu bài gốc được sửa, hoặc xóa, nhưng vẫn bảo đảm nội dung được lấy nguyên văn từ bản gốc khi đăng tải tại http://www.vnaccs.com.  
 Câu hỏi hoặc góp ý xin gửi tới email:vnaccs@gmail.com
Xin chân thành cảm ơn và kính chúc quý khách luôn thành công trong cuộc sống!

Thứ Bảy, 21 tháng 9, 2013

Từ 1-11, triển khai chữ kí số trong TTHQĐT

(VNACCS.com) - Từ ngày 1-11-2013, người khai hải quan sử dụng chữ kí số (CKS) đã đăng kí với cơ quan Hải quan để thực hiện thủ tục hải quan điện tử (TTHQĐT), quy định này được Bộ Tài chính đưa ra trong Quyết định số 2341/QĐ-BTC ngày 18-9-2013.


Theo đó, việc sử dụng CKS trong TTHQĐT được thực hiện theo quy định tại Nghị định 87/2012/NĐ-CP và Thông tư 196/2012/TT-BTC.

Bộ Tài chính giao Tổng cục Hải quan chịu trách nhiệm tổ chức hướng dẫn người khai hải quan thực hiện.

Theo Khoản C, Điều 4, Nghị định 87: Khi thực hiện TTHQĐT, người khai hải quan phải sử dụng CKS đã đăng kí với cơ quan Hải quan. Trong giai đoạn chưa có CKS thì được sử dụng tài khoản truy nhập Hệ thống xử lí dữ liệu điện tử hải quan để thực hiện TTHQĐT. Người khai hải quan có trách nhiệm bảo mật tài khoản để sử dụng khi giao dịch với cơ quan Hải quan thông qua Hệ thống xử lí dữ liệu điện tử hải quan và chịu trách nhiệm về các giao dịch điện tử theo quy định của pháp luật. Bộ Tài chính quy định lộ trình áp dụng CKS khi thực hiện TTHQĐT.
Thông tư 196 quy định: CKS sử dụng trong TTHQĐT của người khai hải quan là CKS công cộng đã được cơ quan Hải quan xác nhận tương thích với Hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan. Danh sách các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực CKS công cộng cung cấp CKS tương thích với Hệ thống xử lí dữ liệu điện tử hải quan được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử hải quan (địa chỉ: http://www.customs.gov.vn).

Việc sử dụng CKS và giá trị pháp lí của CKS thực hiện theo quy định tại Điều 8 và Điều 12 Nghị định số 26/2007/NĐ-CP ngày 15-2-2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về CKS và dịch vụ chứng thực CKS.

Trước khi sử dụng CKS để thực hiện TTHQĐT, người khai hải quan phải đăng kí CKS với cơ quan Hải quan thông qua Cổng thông tin điện tử Hải quan. Các nội dung đăng ký gồm: Tên, mã số thuế của cơ quan, tổ chức XNK hoặc đại lí làm thủ tục hải quan (nếu có); họ và tên, số chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu, chức danh (nếu có) của người được cấp chứng thư số; số nhận dạng CKS (Serial Number); thời hạn hiệu lực của CKS.

Người khai hải quan phải đăng kí lại với cơ quan Hải quan các thông tin nêu trên trong các trường hợp sau: Các thông tin đã đăng kí có sự thay đổi, gia hạn chứng thư số, thay đổi cặp khóa, tạm dừng chứng thư số.

Không quá 2 phút kể từ thời điểm kết thúc việc đăng kí, thông qua Cổng thông tin điện tử hải quan, cơ quan Hải quan trả lời chấp nhận hoặc từ chối (có nêu rõ lí do) CKS của người khai hải quan. 

CKS đã đăng kí của người khai hải quan được sử dụng để thực hiện TTHQĐT trên phạm vi toàn quốc.

Trước đó, từ ngày 1-1-2013, khi thực hiện chính thức TTHQĐT theo Nghị định 87, việc thí điểm sử dụng CKS trong TTHQĐT được tạm dừng. Lãnh đạo Cục CNTT&Thống kê Hải quan (Tổng cục Hải quan) cho biết, lí do tạm dừng sử dụng CKS do Tổng cục Hải quan đang thực hiện việc nâng cấp, hoàn thiện để phục vụ cho việc triển khai chính thức trên phạm vi cả nước theo lộ trình được Chính phủ, Bộ Tài chính đặt ra. 

Cũng theo vị lãnh đạo này, với những doanh nghiệp đã được cấp CKS sẽ tiếp tục sử dụng để thực hiện khi ngành Hải quan áp dụng trở lại. Đặc biệt, với những doanh nghiệp đang sử dụng CKS có hiệu lực trên toàn quốc cũng đồng thời sử dụng được CKS này để khai báo hải quan và các chứng từ khác với tất cả các đơn vị hải quan trên phạm vi cả nước.
Theo Cục CNTT&Thống kê Hải quan, hiện hệ thống CNTT của cơ quan Hải quan cho phép tiếp nhận CKS của tất cả các nhà cung cấp dịch vụ này (đã được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp phép hoạt động ở Việt Nam).

Tuy nhiên, đại diện Cục CNTT&Thống kê Hải quan cảnh báo những cá nhân được giao quản lí CKS của các doanh nghiệp cần phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trong việc bảo quản, sử dụng, tránh trường hợp để thất lạc hoặc cho người khác sử dụng thay sẽ dễ gây ra nhiều hệ lụy. Trường hợp bị mất hoặc có sự thay đổi khác cần phải thông báo ngay với cơ quan Hải quan để có biện pháp ngăn chặn kịp thời. Với người sử dụng CKS cũng cần được đào tạo nhất định để sử dụng thành thục, hiệu quả…

Như vậy, với quyết định vừa được Bộ Tài chính ban hành, việc sử dụng CKS trong TTHQĐT sẽ được thực hiện trở lại từ ngày 1-1-2013.

Theo đại diện Cục CNTT&Thống kê Hải quan, đơn vị sẽ gấp rút có hướng dẫn cho doanh nghiệp và cơ quan Hải quan địa phương thực hiện quyết định này của Bộ Tài chính.

(Theo HQonline, tác giả: N.Quốc)



Tuyên bố trách nhiệm: Bài viết được lấy nguyên văn từ nguồn tin nêu trên. Mọi thắc mắc về nội dung bài viết xin liên hệ trực tiếp với tác giả. Chúng tôi sẽ sửa, hoặc xóa bài viết nếu nhận được yêu cầu từ phía tác giả hoặc nếu bài gốc được sửa, hoặc xóa, nhưng vẫn bảo đảm nội dung được lấy nguyên văn từ bản gốc khi đăng tải tại http://www.vnaccs.com.  
 Câu hỏi hoặc góp ý xin gửi tới email:vnaccs@gmail.com
Xin chân thành cảm ơn và kính chúc quý khách luôn thành công trong cuộc sống!

Cải cách, hiện đại hóa hải quan

(VNACCS.com) - Với việc ký kết các hiệp định song phương và đa phương về thương mại quốc tế làm cho nhiệm vụ của ngành hải quan ngày càng phức tạp hơn, nhất là các vấn đề liên quan đến hàng rào kỹ thuật, chống bán phá giá, độc quyền. Bên cạnh đó, sự phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ; nhất là công nghệ thông tin và truyền thông đã làm thay đổi phương phức hoạt động của cả doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước.

 Trước sự phát triển đó, và từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, đòi hỏi ngành hải quan phải đẩy mạnh hơn nữa ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ vào hoạt động quản lý nhà nước của mình để vừa tạo thuận lợi cho doanh nghiệp vừa bảo đảm hiệu quả và hiệu lực của quản lý nhà nước về hải quan. Ðồng thời, phải tiếp tục cải cách, hiện đại hóa, đổi mới hơn nữa, nâng cao năng lực cán bộ, công chức và cải thiện cơ sở pháp lý, cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin, v.v.

Ðứng trước đòi hỏi tất yếu khách quan cần phải cải cách, hiện đại hóa, Chính phủ và Bộ Tài chính rất quan tâm và chỉ đạo sát sao công tác cải cách, hiện đại hóa hải quan. Trong năm 2009, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Sinh Hùng đã có buổi làm việc trực tiếp với Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan về công tác cải cách hành chính, hiện đại hóa hải quan. Trong đó, Phó Thủ tướng đã có những chỉ đạo sát sao, cụ thể đối với công tác cải cách, hiện đại hóa hải quan. 

Cùng với nỗ lực của Chính phủ và Bộ Tài chính, trong thời gian qua, cán bộ, công chức toàn ngành hải quan đều quyết tâm, khắc phục khó khăn, thể hiện tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và có trách nhiệm trong việc thực hiện cải cách, hiện đại hóa hải quan. Ngay sau khi kế hoạch cải cách, phát triển và hiện đại hóa hải quan được ban hành, ngành hải quan đã nhanh chóng tổ chức triển khai với quyết tâm cao. Các cấp ủy đảng đều quán triệt, coi thực hiện cải cách, hiện đại hóa là nhiệm vụ chính trị quan trọng của mình. Với định hướng đó, ngay từ năm 2005, Ðảng ủy Cơ quan Tổng cục Hải quan đã ban hành Nghị quyết số 02/NQ-Ð.U ngày 13-4-2005 về lãnh đạo thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ cải cách, phát triển và hiện đại hóa ngành hải quan giai đoạn 2005-2006 đến 2010, nhằm quán triệt tới tất cả cán bộ, công chức, đảng viên quyết tâm thực hiện cải cách, hiện đại hóa hải quan. Ngành hải quan đã ban hành một loạt văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện cải cách, hiện đại hóa. Ðặc biệt trong năm 2008, Tổng cục Hải quan đã phê duyệt Kế hoạch cải cách, phát triển và hiện đại hóa hải quan giai đoạn 2008-2010 cho tất cả 33 cục hải quan tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư. 

Nội dung cải cách, hiện đại hóa của ngành tập trung triển khai thực hiện hai kế hoạch cải cách, phát triển và hiện đại hóa hải quan giai đoạn 2004 - 2007 và 2008-2010. Ðến nay, đã thu được những kết quả đáng khích lệ, làm tiền đề cho việc tiếp tục đẩy mạnh cải cách, hiện đại hóa trong các giai đoạn tiếp theo. Cùng với đó, ngành hải quan đã triển khai thực hiện thí điểm thủ tục hải quan điện tử. Cho đến nay, đã thực hiện thí điểm thủ tục hải quan điện tử được gần 5 năm tại 12 cục hải quan tỉnh, thành phố với tổng số 44 chi cục và đã cho kết quả tốt đẹp: Hơn 1.200 doanh nghiệp thực hiện thủ tục hải quan điện tử. Những kết quả bước đầu cho thấy, mô hình thực hiện thủ tục hải quan điện tử đã phát huy hiệu quả; giúp giảm thời gian thông quan; thay đổi phương thức quản lý của cả cơ quan hải quan và doanh nghiệp; được doanh nghiệp và cộng đồng xã hội ủng hộ, đánh giá cao.

Ngành hải quan cũng đang thực hiện tốt vai trò cơ quan đầu mối về xây dựng và thực hiện cơ chế một cửa quốc gia và cơ chế một cửa ASEAN. Trong đó, Tổng cục Hải quan đã đề xuất Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia về cơ chế một cửa ASEAN giai đoạn 2008-2012 kiện toàn bộ máy tổ chức và quy chế hoạt động; chủ động rà soát ở mức tổng quát các quy trình thủ tục của các bộ, ngành theo kết quả rà soát của Ðề án 30 của Chính phủ về đơn giản hóa thủ tục hành chính; chuẩn bị các điều kiện cho triển khai thực hiện cơ chế một cửa quốc gia.

Ðáng chú ý là, ngành đã tăng cường đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật, đưa vào vận hành máy soi công-ten-nơ tại cảng Cát Lái; tiếp tục triển khai các hạng mục mua sắm máy soi tại cảng Hải Phòng trong khuôn khổ Dự án do JICA tài trợ; đồng thời tiến hành thủ tục mua sắm trang bị hệ thống ca-mê-ra giám sát, trang bị hệ thống máy soi hành lý, các máy phát hiện phóng xạ và các trang thiết bị khác.

Thực hiện chủ trương của Chính phủ về đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, trong thời gian qua, Tổng cục Hải quan đã đẩy mạnh việc thực hiện Ðề án 30 theo đúng tiến độ và yêu cầu. Theo đó, các phương án đơn giản hóa được thực hiện sẽ tiết kiệm chi phí cho Nhà nước và doanh nghiệp hàng trăm tỷ đồng.

Công tác cải cách tổ chức bộ máy và phát triển nguồn nhân lực cũng được triển khai hiệu quả. Ðã từng bước xây dựng và hình thành cơ cấu tổ chức bộ máy phục vụ quản lý rủi ro, kiểm tra sau thông quan, kiểm soát ma túy, bộ máy hải quan mới tại các địa bàn trọng điểm; đồng thời nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Nhờ cải cách, hiện đại hóa, Tổng cục Hải quan đã xây dựng và phát triển ngành hải quan bước đầu theo hướng hiện đại, chuyên sâu, chuyên nghiệp. Cải cách, hiện đại hóa đã góp phần bảo đảm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Trong những năm qua, Quốc hội, Chính phủ đã giao cho ngành hải quan chỉ tiêu thu ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa năm sau cao hơn năm trước, trong điều kiện có thay đổi về chính sách thuế, cơ cấu mặt hàng theo hướng giảm dần. Tuy nhiên, nhờ cải cách, hiện đại hóa, ngành hải quan đã luôn hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu về thu thuế xuất, nhập khẩu và thu khác. 

Cũng nhờ cải cách, hiện đại hóa, ngành hải quan đã không ngừng tạo thuận lợi cho thương mại và vận tải quốc tế, góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước, thu hút đầu tư, phát triển du lịch. Theo đó, đã cải tiến quy trình thủ tục theo hướng đơn giản, thuận lợi, tạo chuyển biến căn bản trong hoạt động quản lý nhà nước về hải quan, xóa bỏ những thủ tục, chế độ kiểm tra, kiểm soát hải quan thiếu đồng bộ, chồng chéo, rườm rà, phức tạp, gây cản trở trong việc tiếp nhận và xử lý công việc giữa cơ quan hải quan với nhau; giữa cơ quan hải quan với công dân, tổ chức có hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh. Cải cách, hiện đại hóa đã góp phần bảo vệ sản xuất trong nước, tăng cường sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, bảo vệ an ninh và an toàn xã hội.

 Từ năm 2001 đến nay, các đơn vị toàn ngành hải quan đã phát hiện, bắt giữ khoảng 36.500 vụ, trị giá hàng hóa vi phạm ước tính khoảng 5.500 tỷ đồng. Kết quả trong công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại của Hải quan Việt Nam góp phần vào việc tạo lập môi trường pháp lý lành mạnh, bình đẳng trong hoạt động kinh doanh xuất, nhập khẩu hàng hóa và phương tiện vận tải, hành khách xuất, nhập cảnh. Cải cách, hiện đại hóa góp phần hoạch định chính sách, điều hành kinh tế vĩ mô thông qua hoạt động thống kê  nhà nước về hải quan. 

Phát huy những kết quả đã đạt được, trên cơ sở nhiệm vụ được giao, trong thời gian tới, mục tiêu hướng tới của ngành hải quan là tập trung hoàn thiện và thực thi hiệu quả chế độ quản lý nhà nước về hải quan, góp phần bảo đảm thực hiện chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học và công nghệ; hợp tác và giao lưu quốc tế; bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Ðồng thời xây dựng Hải quan Việt Nam thành một tổ chức hiện đại, chuyên sâu, chuyên nghiệp, được trang bị và làm chủ kỹ thuật hiện đại, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả. 

Trong giai đoạn trước mắt, ngành hải quan tiếp tục đẩy mạnh cải cách, hiện đại hóa hải quan và thực hiện thủ tục hải quan điện tử, tạo thuận lợi xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, kiềm chế nhập siêu, giảm thời gian thông quan. Chuẩn bị mọi mặt cho việc thay đổi phương thức quản lý nhân sự theo yêu cầu hiện đại; triển khai Chiến lược đào tạo tập trung cho một số lĩnh vực nghiệp vụ quan trọng như phân loại hàng hóa, xác định trị giá hải quan, xuất xứ hàng hóa, kiểm tra sau thông quan, thông tin tình báo, quản lý rủi ro, kiểm soát chống buôn lậu và liêm chính hải quan. Tiếp tục thực hiện rà soát, đơn giản hóa thủ tục hải quan theo Ðề án 30 và Nghị quyết số 25/NQ-CP của Chính phủ, bảo đảm đơn giản hóa tối thiểu 30% các thủ tục hành chính. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát hải quan trong công tác đấu tranh chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới.

  (Theo nhandan, tác giả:  Cao Huy Tài)


Tuyên bố trách nhiệm: Bài viết được lấy nguyên văn từ nguồn tin nêu trên. Mọi thắc mắc về nội dung bài viết xin liên hệ trực tiếp với tác giả. Chúng tôi sẽ sửa, hoặc xóa bài viết nếu nhận được yêu cầu từ phía tác giả hoặc nếu bài gốc được sửa, hoặc xóa, nhưng vẫn bảo đảm nội dung được lấy nguyên văn từ bản gốc khi đăng tải tại http://www.vnaccs.com.  
 Câu hỏi hoặc góp ý xin gửi tới email:vnaccs@gmail.com
Xin chân thành cảm ơn và kính chúc quý khách luôn thành công trong cuộc sống!

my thoughts

CÓ NHIỀU VIỆC TA CẦN LÀM TRONG ĐỜI, TRUOC HẾT LÀ LÀM 1 NGƯỜI TỐT.
Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More

 
Email: vnaccs@gmail.com